Trong những điều kiện ngoại cảnh khác nhau, các phản xạ có đk có thể bị yếu đi, bị giữ lại, ngừng hẳn hoặc hoàn toàn không xuất hiện – có nghĩa là bị ức chế.
- Miền địa hình phía bắc của khu vực nam á?
- Cách phân biệt lãi đơn và lãi kép chi tiết, dễ hiểu
- Kim loại sắt không phản ứng được với dung dịch nào sau đây
- Ai là người phát minh ra internet – Khái niệm Lịch sử sự hình thành và phát triển của internet
- Niên hạn sử dụng xe ô tô và cách tính theo quy định mới nhất 2023
Nhờ có quá trình ức chế mà các dòng xung động được giữ lại tại các tế bào kích thích không đi đến các cơ quan thực hiện, hoặc có đến nhưng ở dạng yếu.
Bạn đang xem: HUẤN LUYỆN CHO NGHIỆP VỤ
Ức chế – phương tiện chủ yếu để duy trì, điều chỉnh và hoàn thiện các phản xạ có đk, các hoạt động phản xạ và phản ứng trạng thái.
Việc thành lập bất cứ một phản xạ có đk nào cũng đòi hỏi phải có sự hưng phấn của một số trung tâm thần kinh ở vỏ não và sự ức chế của một số trung tâm thần kinh khác.
Ức chế chia làm hai loại : Ức chế có đk và ức chế không đk
Ức chế không đk : Là tính chất bẩm sinh của hệ thần kinh trung ương, tất cả các trung tâm thần kinh đều mang tính chất này.
Trong huấn luyện và thực tế sử dụng chó nghiệp vụ có thể thấy rõ các dạng ức chế không đk sau đây : Ức chế quá mức, ức chế dập tắt, ức chế không tắt và ức chế ngư.
1- Ức chế quá mức ( hay ức chế bảo vệ ):
Xuất hiện và phát triển khi có tác động của các kích thích quá mạnh, hoặc kích thích thông thường nhưng kéo dài.
Ví dụ : tiếng súng, tiếng nổ lớn, ánh sáng đèn pha hoặc sự lặp đi lặp lại nhiều lần và liên tục một kích thích, sẽ gây nên ở chó phản xạ không đk.
Phát triển hung dữ kéo dài thì không gây nên hưng phấn cho chó mà trái lại là một ức chế mạnh, sau khi chó được nghỉ ngơi.
Về bản chất, thì ức chế quá mức là một cơ chế tự vệ, bảo vệ cho các trung tâm thần kinh khỏi bị tình trạng quá hưng phấn ( quá khích hưng phấn quá ngưỡng ). Bảo vệ các tế bào thần kinh khỏi bị kiệt sức ( suy mòn ).
2- Ức chế dập tắt ( hay định hướng )
Còn gọi là ức chế ngoài, nó xuất hiện khi có KT mới, là không bình thường từ môi trường bên ngoài.
Ức chế này xuất hiện trong các trung tâm thần kinh dưới dạng phản xạ định hướng ( tìm hiểu ) “ cái gì đó ? “ . Và ức chế toàn bộ hoạt động phản xạ có đk .
Nếu kích thích này được lặp đi lặp lại nhiều lần, và phản xạ có ĐK được thành lập thì ức chế tìm hiểu bị tắt, và vì thế nó có thể gọi là ức chế dập tắt.
Ví dụ : Sự thích nghi với điêu kiện mới sẽ không gây ức chế cho công việc của chó.
3- Ức chế không tắt ( thường xuyên )
Xem thêm : Điểm chuẩn thi vào 10 năm 2022 Lạng Sơn – HOCMAI
Xuất hiện khi có kích thích gây đau đớn và các kích thích có ý nghĩa chức năng quan trọng đối với cơ thể động vật .
Gọi là ức chế không tắt bởi vì khi có tác động của kích thích kéo dài lặp đi lặp lại nó không bị tắt mà ngược lại còn tăng lên và không mất đi khi tác dụng ức chế của mình nếu như chưa ngăn chặn hoặc làm mất đi nguyên nhân gây ức chế.
Nguyên nhân của ức chế này có thể là nhu cầu bài tiết, đào thải, nước tiểu, phân, nôn, ho, mệt mỏi, ốm đau, sốt ở chó.. vv
4- Ức chế ngủ :
Đó là trạng thái quy luật tự nhiên của đời sống động vật.
Ngủ – sự cần thiết của sinh lý để nghỉ ngơi và hồi phục là nguồn năng lượng đã mất đi của hệ TK và của chính cơ thể.
Trong thực tế huấn luyện cần phải tính đến nhịp độ sinh lý giấc ngủ ban đêm của chó. Để làm việc trong Đk ban đêm phải thay đổi nhịp độ sinh lý ức chế ngủ.
Các dạng ức chế có đk :
Ức chế có đk: được hình thành trong quá trình sống hoặc huấn luyện dưới dạng phản xạ ức chế có đk, thông qua quá trình thông tin ngược chiều, và vì thế nên nó được gọi là ức chế trong.
Ở chó, ức chế này do huấn luyện viên thành lập dưới dạng phản xạ có đk sau: Ức chế có đk dập tắt, ức chế chậm, ức chế phân biệt và ức chế có đk.
1. Ức chế dập tắt :
Phát triển khi không có sự củng cố đối với KT có đk. Nếu như,
Ví dụ: khẩu lệnh hoặc tín hiệu “cạnh “ không được củng cố bằng KT không đk, như dật dây cương thì mỗi lần phản xạ có điều kiện lại bị yếu dần đi và cuối cùng sẽ bị tắt hẳn.
Sự dập tắt của phản xạ có đk không liên quan tới sự mệt mỏi của trung tâm thần kinh khi có sự lặp đi lặp lại liên tục của KT.
Nếu như sau khi phản xạ có đk tắt hoàn toàn mà có giai đoạn nghỉ ngơi một vài này, sau đó lại củng cố KT có đk bằng KT không đk, thì phản xạ lại xuất hiện và đạt được cường độ như trước.
Trong thực tế huấn luyện có thể thấy rõ ràng,khi phản xạ có đk bị dập tắt do không có củng cố, sau một thời gian nào đó có thể tự nó hồi phục được . Có nghĩa là ức chế dập tắt đã bị mất đi.
Hiện tượng này gọi là sự thoát (khử) ức chế. Sự dập tắt lặp lại diễn ra lại nhanh hơn, dễ hơn các lần trước. Sự dập tắt được lặp lại nhiều lần có thể dẫn tới tắt hoàn toàn phản xạ có đk.
Những phản xạ có đk quá yếu sau khi bị tắt có thể không hồi phục được. Tính quy luật của ức chế dập tắt phải được xét đến trong phương pháp tổ chức và tiến hành bài giảng, luyện tập trong huấn luyện chó.
Xem thêm : Đại học Tài chính Marketing (UFM) – Mã trường: DMS
2. Ức chế chậm :
Xuất hiện trong các trung tâm TK khi còn lại sự củng cố trong khoảng thời gian từ khi có sự bắt đầu tác động của KT có đk.
Nó được hình thành trong khoảng thời gian giữa sự tác động của KT có đk và không đk. Nó nằm trong sự hình thành giai đoạn không hoạt động của các phản xạ thời gian, muộn , đến chậm và dấu vết.
Trong huấn luyện, ức chế chậm được sử dụng để rèn luyện tính kỷ luật khi có ở tư thế ngồi, đứng , nằm, cắp vật, canh gác …
Nhờ có sự phát triển ức chế chậm mà các phản xạ có đk đã được hình thành trở nên chính xác hơn, chúng điều chỉnh và rèn luyện tính kỷ luât trong hành vi biểu hiện của chó.
3. Ức chế phân biệt (biệt hóa) :
Xuất hiện khi có sự củng cố thường xuyên của 1 KT có đk và không có sự củng cố của các KT khác giống như thế.
Việc hình thành ức chế phân biệt diễn ra dần dần, không đều nhau, điều này chứng tỏ cần sự tranh chấp giữa ức chế đang phát triển và quá trình hưng phấn.
Sự phân biệt được hình thành một cách dễ dàng và nhanh chóng khi các KT giống nhau ở xa tác động, còn nếu những KT ở gần thì sự phân biệt rất khó được hình thành , thậm chí hoàn toàn không thể hình thành được.
Sự phân biệt tinh vi có thể hình thành được sau khi luyện tập ức chế, đầu tiên đối với các KT có sự khác nhau lớn. Sau đó sự khác nhau giữa các KT nhỏ dần đi.
Trên cơ sở ức chế phân biệt ta có thể hình thành phản xạ có đk phân biệt, phản xạ này đảm bảo cho chó khả năng phân biệt được 1 KT trong vô vàn các KT giống nhau theo mùi hơi cho trước, trong số 10-12 vật có mùi hơi của nhiều người khác nhau .
Phản xạ phân biệt dễ dàng khử ức chế khi có tác động của KT lạ vào chó. Nó thể hiện ở chó dưới các dạng hưng phấn không có nguyên nhân, cắp tất cả các đồ vật , chọn sai vật.
Để hình thành kỹ năng phân biệt thật bền vững ở chó, đòi hỏi phải lặp lại nhiều lần bài tập theo 1 phương pháp nhất định.
4. Ức chế có đk :
Được hình thành khi có một KT có đk có khả năng làm ức chế tác động của KT có ĐK khác . Ví dụ khẩu lệnh ngăn cấm “sai” ức chế mọi phản xạ có đk dương tính xuất hiện do KT có đk khác.
Trong thực tế huấn luyện ức chế có đk được sử dụng để loại trừ những hành động không cần thiết, gây khó khăn cho công tác huấn luyện và sử dụng để loại trừ những hành động không cần thiết, gây khó khăn cho công tác huấn luyện và sử dụng chó nghiệp vụ trong công tác .
Tuy nhiên cũng cần phải nhớ rằng, sử dụng ức chế có đk để gây ức chế không chỉ cho ngững hành động không cần thiết mà còn gây ức chế cho cả những ức chế có đk dương tính khác .
Cho nên khẩu lệnh ngăn cấm “sai” chỉ được sử dungjtrong những trường hợp cần thiết, còn khi chọn vật và truy vết, thông thường , không sử dụng đến nó (khẩu lệnh này).
Nguồn: https://vnedulink.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục