Tổng hợp các bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể mà bạn yêu thích hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể (mẫu 1)
- Dàn ý Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể
- Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể (mẫu 2)
- Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể (mẫu 3)
- Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể (mẫu 4)
- Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể (mẫu 5)
- Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể (mẫu 6)
- Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể (mẫu 7)
- Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể (mẫu 8)
- Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể (mẫu 9)
- Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể (mẫu khác)
Top 20 Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể (siêu hay)
Quảng cáo
Đề bài: Hãy viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể (thần thoại, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn, truyện cười, truyện cổ tích) mà bạn yêu thích.
Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể - mẫu 1
Nhắc đến những câu chuyện cổ tích của nước ta, không thể bỏ qua truyện “Cây khế”. Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện cổ tích đặc sắc nhất trong kho tàng truyện dân gian của nước ta.
Truyện kể về hai anh em nhà nọ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống nương tựa vào nhau. Cha mẹ mất để lại cho hai anh em một cây khế và một chút ruộng vườn, của cải, tuy không khá giả nhưng hai anh em vẫn có cuộc sống no đủ. Từ khi người anh trai lấy vợ bỗng sinh ra lười nhác, mọi việc đều đổ hết lên đầu vợ chồng người em. Thậm chí sợ em tranh công nên anh trai đã chia gia tài, chiếm hết của nải, đẩy vợ chồng em ra túp lều nát với cây khế của cha mẹ để lại. Vợ chồng người em chăm chỉ làm lụng, chăm bẵm cho cây khế ra quả, chim quý đến ăn và đã trả công vợ chồng em trai bằng vàng bạc. Tiếng đồn đến tai người anh, người anh tham lam nên gạ đổi gia tài lấy cây khế. Chim quý cũng đến ăn và hứa trả ơn bằng vàng, nhưng vì tính tham lam vô độ của người anh nên đã bị chim quý hất xuống biển sâu. Cốt truyện tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.
Quảng cáo
Truyện “Cây khế” phản ánh cuộc xung đột giữa hai tuyến nhân vật trong một gia đình, một bên là vợ chồng người em trai hiền lành, chăm chỉ, chịu khó; một bên là vợ chồng người anh trai tham lam, ích kỉ, chỉ nghĩ đến đồng tiền. Thông qua khai thác xung đột trong gia đình này, tác giả dân gian đã phản ánh chủ đề của chuyện đó là phê phán sự tham lam, ích kỉ của con người, ca ngợi những con người chịu khó, chăm chỉ, biết sống lương thiện, biết thế nào là đủ. Câu chuyện còn là lời cảnh tỉnh cho những ai đã và đang xem nhẹ tình anh em trong gia đình, cắt đứt tình máu mủ ruột rà chỉ vì những cái lợi trước mắt. Chủ đề truyện này không mới nhưng nó vẫn có giá trị không riêng với thế giới cổ tích mà còn cả xã hội hiện thực bây giờ.
Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu sắc trong truyện Cây khế thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.
Quảng cáo
Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Tình huống truyện chia gia tài, vốn rất quen thuộc trong truyện kể dân gian. Nhờ tình huống này bản chất xấu xa tham lam của vợ chồng người anh trai được bộc lộ. Tình huống thứ hai, góp phần giúp mạch truyện tiến triển là tình huống chim quý xuất hiện và ăn khế của vợ chồng em trai. Nhờ chim quý vợ chồng em trai được đền đáp xứng đáng cho tấm lòng, sự lương thiện của mình. Cũng nhờ chim quý mà vợ chồng người anh trai đã bị trừng trị thích đáng cho bản tính tham lam, mờ mắt vì tiền của mình. Nhân vật chim quý đóng vai trò là nhân vật chức năng, thế lực siêu nhiên, thay nhân dân thực hiện mong ước của họ. Đây cũng là kiểu nhân vật khá quen thuộc trong truyện cổ tích Việt Nam.
Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng cũng là một nét nổi bật cho truyện cổ tích Việt Nam. Trong đó người anh trai là tuyến nhân vật đại diện cho kiểu người tham lam, chỉ nghĩ đến đồng tiền; nhân vật em trai là đại diện cho tuyến nhân vật bất hạnh, mồ côi, chịu nhiều thiệt thòi, cam chịu. Hai tuyến nhân vật chính - tà khá quen thuộc trong truyện cổ tích, là đại diện cho các kiểu người trong xã hội phân chia giai cấp thời bấy giờ.
Quảng cáo
Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ, hành động của nhân vật. Nhân vật trong truyện cổ tích vốn chưa có những tâm lý hay nét tính cách độc đáo, riêng biệt như trong văn xuôi của các tác giả văn học. Nhưng thông qua lời thoại, ngôn ngữ, hành động chúng ta cũng thấy được phần nào những nét tính cách đặc trưng của nhân vật. Chẳng hạn qua thái độ “rối rít, mừng quýnh, vái lấy vái để “ khi gặp chim thần của vợ chồng anh trai cũng đủ thấy vợ chồng anh ta là người tham lam, ích kỉ, tôn sùng vật chất, luôn trông chờ vào vận may; hành động “nhét đầy vàng vào tay áo, ống quần, lết mãi mới ra khỏi hang” đủ thấy anh trai tham lam đến mờ lý trí… còn vợ chồng người em trai thấy con chim thần chỉ biết than “ ông chim ơi, ông ăn hết khế nhà cháu…” rồi hành động “chỉ nhặt vừa đủ vàng bạc nhét vào túi rồi ra về” cũng đủ thấy người em trai vốn bản tính lương thiện, hiền lành. Nhân vật chỉ được khắc họa qua hành động, ngôn ngữ nhưng những nét tính cách nổi bật vẫn hiện lên tương đối đậm nét.
Những phân tích ở trên đây cho thấy Cây khế là một truyện cổ tích tiêu biểu trong kho tàng truyện cổ Việt Nam. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán đến những người có lối sống ham vật chất, coi thường tình cảm máu mủ. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, hành động để nhân vật bộc lộ rõ cá tính của mình, thông qua đó chủ đề truyện cũng được tô đậm.
Câu chuyện là một bài học đắt giá cảnh tỉnh những người tham lam, không coi trọng tình cảm gia đình, sớm hay muộn cũng sẽ nhận phải một kết cục không may mắn.
Dàn ý Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể
I. Mờ bài
Giới thiệu truyện kể. Nêu khái quát định hướng của bài viết.
II. Thân bài
1. Tóm tắt truyện
2. Chủ đề và ý nghĩa của chủ đề
- Chủ đề: Đề cập đến lòng tham và sự ích kỷ của con người
- Ý nghĩa của chủ đề: phê phán những con người có lòng tham vô đáy, ích kỷ, tham lam chỉ nghĩ đến đồng tiền mà quên đi tình anh em.
3. Những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật
3.1 Phân tích, đánh giá nghệ thuật tạo tình huống
3.2 Phân tích, đánh giá cách xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng và tác dụng trong việc thể hiện chủ đề
3.3 Phân tích, đánh giá cách khắc họa tính cách nhân vật qua lời thoại, ngôn ngữ
III. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị của chủ đề và sự đặc sắc của các nét nghệ thuật.
- Tác động của truyện đối với bản thân và người đọc.
Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể - mẫu 2
Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh lầ một trong những truyền thuyết lâu đời nhất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam và đã gắn liền với tuổi thơ của biết bao người. Câu chuyện thể hiện niềm khao khát chế ngự thiên nhiên của nhân dân ta, trước nỗi lo thiên tai bão lụt vẫn thường hoành hành hằng năm qua.
Đàu tiên, truyền thuyết này như muốn nói về hiện tượng thiên tai, bão lũ hàng năm cũng như lòng quyết tâm chống lại thiên tai của nhân dân ta. Sơn Tinh Thuỷ Tinh kể về đời vua Hùng thứ 18. Kể rằng vua Hùng có một người con gái vô cùng xinh đẹp, lại nết na, hiền dịu có tên là Mị Nương. . Nay nàng đến tuổi thành thân, nên vua cha muốn kén cho nàng một người chồng xứng đáng. Trong số đó có hai chàng trai kiệt xuất là Sơn Tinh và Thủy Tinh. Một người là ''chúa vùng non cao''. Một người là ''vua vùng nước thẳm''. Vì đưa được sính lễ tới trước là ''voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao'' nên Sơn tinh đã cưới được Mị Nương về làm vợ. Tức tối, ghen ghét vì thua cuộc , Thủy Tinh đã hô mưa gọi gió, tạo ra lũ lụt để đánh bại Sơn Tinh.Thủy Tinh dâng nước thì Sơn Tinh dời núi non. Thủy Tinh đại diện cho thiên nhiên giông bão, lũ lụt; còn Sơn Tinh là nhân vật biểu trưng cho nhân dân ta với tinh thần kiên cường bất khuất, sự mưu trí và anh dũng không chịu đầu hàng trước thiên tai, số phận.
Tiếp đó, tác giả dân gian đã lựa chọn được hình ảnh, nghệ thuật đặc sắc để diễn tả được hình ảnh thiên tai bão lũ và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trước thiên tai. Đây là câu chuyện được viết theo kiểu thần thoại Việt Nam nên có thể thấy được truyện chưa nhiều yếu tố kỳ ảo để nói về những hiện tượng thiên nhiên. Từ tình huống vua Hùng kén rể , ta có thể tháy đươc là núi non, nhân dân luôn được đặt lên hàng đầu . Vua Hùng đặt ra sính lễ là''voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao''. Những lễ vật này có thể thấy được là dễ dàng tìm ở vùng núi rừng chứ không phải biển cả. Sơn tinh đã có một lợi thế rõ ràng trước Thủy TInh. Sau đó, một loạt những chi tiết kỳ ảo như ''Thủy tinh hô mưa, gọi gió.'', ''Nước dâng lên cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi, núi mọc cao lên bấy nhiêu.'' như vẽ nên bức tranh thiên tai ngày xưa. Lũ lụt càng lên cao, dân ta càng gắng sức chiến đấu, chống lại thiên tai. Cùng với đó là hình ảnh người dân Văn Lang cùng Sơn Tinh chống lại cuộc tấn công của Thủy tinh càng tô đậm vẻ kiên cường của nhân dân Việt Nam trước bão lũ.
Câu chuyện Sơn Tinh , Thủy Tinh được khắc họa qua các chi tiết kỳ ảo, sinh động về hai vị thần rất thành công trong việc đưa người đọc đến với hình ảnh của người dân thời xưa đối mặt với sự tức giận từ thiên nhiên như thế nào. Truyện gắn mãi với bao thế hệ, luôn nhắc nhở chúng ta về tình đoàn kết của nhân dân trước mọi khó khăn, thử thách.
Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể - mẫu 3
Thần Trụ Trời” là một tác phẩm dân gian truyền miệng của người Việt cổ được sản sinh từ thời tối cổ và còn tồn tại đến ngày nay, được nhà khảo cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, kể lại bằng bản văn trong “Lược khảo về thần thoại Việt Nam”. Qua truyện thần thoại này, người Việt cổ muốn giải thích nguồn gốc các hiện tượng thiên nhiên như vì sao có trời, có đất và vì sao trời với đất lại được phân đôi, vì sao mặt đất lại không bằng phẳng có chỗ lõm có chỗ lồi, vì sao có sông, núi, biển, đảo.
Cho thấy người Việt cổ cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã cố gắng tìm để hiểu rõ những gì có xung quanh họ. Vì cũng chưa tìm hiểu được nhưng họ lại không chịu bó tay, họ bèn sáng tạo ra một vị thần khổng lồ để giải thích tự nhiên vũ trụ một cách hết sức ngây thơ và đáng yêu. Độc giả ngày nay cảm nhận được trong đó cái hồn nhiên và ước mơ của những người Việt cổ muốn vươn lên để giải thích thế giới tự nhiên quanh mình.Mọi chi tiết kể và tả Thần Trụ Trời đều gợi những vòng hào quang, điểm tô tính chất kỳ lạ, phi thường của nhân vật, thần thoại. Truyện đã nhân cách hóa vũ trụ thành một vị thần.
Hành động đầu tiên khi Thần Trụ Trời xuất hiện là “vươn vai đứng dậy, ngẩng cao đầu đội trời lên, giang chân đạp đất xuống,…” cũng là hành động và việc làm có tính phổ biến của nhiều vị thần tạo thiên lập địa khác trên thế giới. như ông Bàn Cổ trong thần thoại Trung Quốc cũng đã làm giống hệt như vậy. Tuy nhiên vẫn có điểm khác biệt chính là sau khi đã xuất hiện trong cõi hỗn độn giống như quả trứng của vũ trụ, ông đạp cho quả trứng tách đôi, nửa trên là trời, nửa dưới là đất và ông tiếp tục đẩy trời lên cao, đạp đất xuống thấp bằng sự biến hóa, lớn lên không ngừng của bản thân ông chứ không phải như Thần Trụ Trời đã xây cột chống trời.
Như vậy cho thấy việc khai thiên lập địa của ông Thần Trụ Trời ở Việt Nam và ông Bàn Cổ ở Trung Quốc vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Và đó cũng chính là nét chung và nét riêng có ở trong thần thoại của các dân tộc. Từ cái ban đầu vốn ít ỏi, người Việt cổ cũng như các dân tộc khác trên thế giới không ngừng bổ sung, sáng tạo làm cho nền văn học, nghệ thuật ngày một đa dạng hơn. Chúng ta cũng có thể đánh giá về kho tàng thần thoại Việt Nam đối với nền nghệ thuật Việt Nam như thế nào. Cũng nhờ nghệ thuật phóng đại mà các nhân vật thần thoại có được sức sống lâu bền, vượt qua mọi thời gian để còn lại với chúng ta ngày nay. Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt.
Truyện thần thoại “Thần Trụ Trời” vừa cho các bạn đọc biết được sự hình thành của trời đất, sông, núi, đá,…vừa cho thấy sự sáng tạo của người Việt cổ. Tuy truyện có nhiều yếu tố hoang đường, phóng đại nhưng cũng có cái lõi của sự thật là con người thời cổ đã khai khẩn, xây dựng, tạo lập đất nước.
Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể - mẫu 4
Trong hệ thống thần thoại của dân tộc Việt Nam ta về sự sáng lập vũ trụ, Trần Trụ Trời được coi như truyện mở đầu. Truyện được các nhà khảo cứu văn hóa dân gian sưu tầm, kể lại bằng bản văn trong cuốn "Hợp tuyển thơ văn Việt Nam". Truyện thể hiện giá trị đặc sắc trên nhiều phương diện như chủ đề, hình thức nghệ thuật. Qua đó thể hiện sự tôn kính thiêng liêng của co người với văn hóa tâm linh, tín ngưỡng và với trời đất.
Truyện kể rằng vào thời kì trời đất còn hỗn độn, tối tăm, chưa có thế gian và vạn vật, muôn loài, có một vị thần với ngoại hình và sức mạnh phi thường xuất hiện. Thần ngẩng đầu để đội trời lên rồi tự mình đào đất, đập đá tạo thành một cái cột chống trời. Khi trời đã cao và khô, thần đã phá cột đi và lấy đất đá ném tung khắp nơi tạo thành núi, đảo, đồi cao và biển rộng. Vì vậy, ngày nay, mặt đất không được bằng phẳng. Vị thần ấy được gọi là Trời hay Ngọc Hoàng. Sau đó, các vị thần khác tiếp tục xây dựng thế giới.
Qua cốt truyện Thần Trụ Trời, ta có thể dễ dàng nhận ra giá trị của truyện trước hết thể hiện qua chủ đề và bài học cuộc sống mà nó gửi gắm. Đây là một tác phẩm văn học dân gian thuộc nhóm truyện thần thoại suy nguyên (giải thích các hiện tượng tự nhiên), được nhân dân sáng tạo, lưu truyền từ xa xưa, lưu truyền từ xa xưa nhằm lý giải sự hình thành trời đất, núi sông, biển cả của những người xưa cổ bằng trực quan và tưởng tượng. Truyện thể hiện cái nhìn của con người cổ đại về hiện tượng thế giới được hình thành, được sắp đặt trật tự như bây giờ rất đơn giản nhưng chứa đựng nhiều giá trị, thông điệp sâu sắc về cuộc sống. Qua đó thể hiện sự tôn kính và thiêng liêng của con người đối với văn hóa tâm linh, niềm tin vào tín ngưỡng, trời đất.
Ngay từ thời nguyên thuỷ, cuộc sống sinh hoạt, lao động đã luôn đòi hỏi con người phải quan sát, suy ngẩm về các hiện tượng tự nhiên liên quan mật thiết tới mình. Truyện cho thấy người Việt cổ cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã cố gắng tìm để hiểu rõ thế giới tự nhiên xung quanh họ. Vì trình độ của con người bấy giờ chưa đủ để nhận thức đúng các hiện tượng ấy nên từ những điều quan sát được kết hợp với trí tưởng tượng hồn nhiên, chất phác, ngây thơ, họ đã sáng tạo ra những yếu tố siêu nhiên, những vị thần linh để giải thích sự hình thành thế giới tự nhiên. Qua đó thể hiện ước mơ chinh phục thiên nhiên của người Việt cổ từ thời xa xưa.
Hành động đầu tiên khi Thần Trụ Trời xuất hiện là "vươn vai đứng dậy, ngẩng cao đầu đội trời lên" cũng là hành động có tính phổ biến của nhiều vị thần tạo thiên lập địa khác trên thế giới. Giống hệt như hình ảnh ông Bàn Cổ trong thần thoại Trung Quốc. Tuy nhiên vẫn có điểm khác biệt chính là sau khi đã xuất hiện trong cõi hỗn độn mà vũ trụ giống như quả trứng khổng lồ, ông đạp cho quả trứng tách đôi, nửa trên là trời, nửa dưới là đất. Rồi bằng sự biến hóa lớn lên không ngừng của bản thân, ông tiếp tục đẩy trời lên cao, đạp đất xuống thấp chứ không phải như Thần Trụ Trời đã xây cột chống trời. Tuy truyện có nhiều yếu tố hoang đường, phóng đại nhưng cũng có cái lõi của sự thật là con người thời cổ đã khai khẩn, xây dựng, tạo lập đất nước. Như vậy cho thấy việc khai thiên lập địa của ông Thần Trụ Trời ở Việt Nam và ông Bàn Cổ ở Trung Quốc vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Và đó cũng chính là nét chung và nét riêng có ở trong thần thoại của các dân tộc. Dù vốn hiểu biết ít ỏi, nhưng từ thuở sơkhai, người Việt cổ cũng như các dân tộc khác trên thế giới không ngừng bổ sung, sáng tạo làm cho nền văn học, nghệ thuật ngày một đa dạng hơn. Nhờ vậy, hệ thống các truyện giải thích về vũ trụ, tự nhiên, vạn vật đã góp phần tạo nên kho tàng thần thoại phong phú, đồ sộ. Đồng thời truyện Thần trụ trời cũng giúp cho con người Việt Nam có nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt. Cũng nhờ nghệ thuật phóng đại mà các nhân vật thần thoại có được sức sống lâu bền, vượt qua mọi thời gian để còn lại với chúng ta ngày nay. Qua đó thể hiện thái độ tôn kính thiêng liêng của mỗi người với văn hóa tâm linh, tín ngưỡng, trời đất cũng như sự trân trọng, khâm phục ước mơ chinh phục thiên nhiên, mở rộng hiểu biết, khám phá thế giới của thế hệ con cháu chúng ta với cha ông từ thời sơ khai.
Như vậy có thể thấy Thần trụ trời là một trong những truyện thần thoại đầu tiên, tiêu biểu, đặc sắc trong kho tàng truyện thần thoại dân gian Việt Nam.
Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề thì các hình thức nghệ thuật cũng rất đặc sắc, ấn tượng, làm nên giá trị của tác phẩm. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và ý nghĩa truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.
Nét hấp dẫn đầu tiên về đặc sắc nghệ thuật của truyện là về đặc trưng thể loại. Đây là một truyện thần thoại đặc sắc hấp dẫn với 4 đặc trưng tiêu biểu của thể loại. Đó là đặc trưng về không gian, thời gian, cốt truyện, nhân vật. Truyện lấy bối cảnh không gian sơ khai, rộng lớn là vũ trụ đang trong quá trình tạo lập. Thời gian của truyện được nhắc đến là "thuở ấy, từ đó". Đây cũng mang tính chất cổ sơ, không xác định cụ thể, không rõ ràng. Cốt truyện xoay quanh việc giải thích quá trình tạo lập ra vũ trụ, trời, đất, thế giới tự nhiên. Nhân vật được kể trong truyện cũng mang đặc trưng thể loại thần thoại. Tất cả các nhân vật đều là các vị thần. Từ nhân vật trung tâm là thần Trụ Trời đến các nhân vật phụ khác như thần Đếm cát, thần Tát bể (biển), thần Kể sao, thần Đào sông, thần Trồng cây, thần Xây rú (núi). Và tất cả các vị thần đều có vóc dáng khổng lồ và sức mạnh phi thường để thực hiện việc làm vĩ đại, phi thường, mang đậm giá trị nhân văn.
Thứ hai, truyện có cách xây dựng nhân vật độc đáo, mang đặc trưng của thể loại thần thoại. Nhân vật trung tâm của truyện là một vị thần. Đó là thần tối cao – thần Trụ Trời. Thần là năng lực siêu phàm, có khả năng phi thường, có ý chí, mạnh mẽ, tài năng, có công sáng tạo ra vũ trụ, thế giới tự nhiên và vạn vật. Vị thần ấy được gọi là Trời hay Ngọc Hoàng. Như vậy, hình tượng nhân vật trung tâm được kể trong truyện rất tiêu biểu, điển hình, rất sinh động, lôi cuốn.
Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể - mẫu 5
Có lẽ, những bí ẩn về thiên nhiên vẫn là một câu hỏi lớn đối với con người thời cổ. Chính vì vậy, họ đã sáng tạo nên các câu chuyện để trả lời cho những thắc mắc của bản thân. Đọc truyện "Thần Trụ trời", ta thấy được cách phân chia bầu trời và mặt đất. Đọc "Prô-mê-tê và loài người", ta được giải đáp về cách các vị thần tạo ra muôn vật và loài người. Không giống hai tác phẩm trên, truyện "Đi san mặt đất" lại là những lí giải đơn giản về quá trình loài người chung lòng, góp sức san phẳng mặt đất để làm ăn mà không có sự xuất hiện của các vị thần. Truyện gây ấn tượng bởi những đặc sắc trong chủ đề và hình thức nghệ thuật.
Truyện "Đi san mặt đất" có chủ đề viết về quá trình khai hoang và cải tạo tự nhiên của người Lô lô xưa, quá trình này cần có sự giúp sức của tất cả mọi người lúc bấy giờ. Người Lô Lô xưa đã có những nhận thức khá nguyên sơ, đơn giả về thế giới vũ trụ, đồng thời họ cũng có ý thức trong việc cải tạo thế giới sống quanh mình Khi Trái Đất vẫn còn hoang sơ thì người xưa đã cùng nhau đi trình khai hoang và cải tạo tự nhiên. Đó là thời gian không thể xác định, mà người cổ xưa chỉ biết là:
"Ngày xưa, từ rất xưa...
Người già không nhớ nổi
Mấy năm mấy nghìn đời
Ngày xưa từ rất xưa...
Người trẻ không biết tới
Mấy nghìn, mấy vạn năm"
Mốc thời gian không cụ thể khiến chúng ta không thể biết chính xác đó là thời điểm nào. Khoảng thời gian ấy xưa đến mức người già cũng không thể nhớ nổi, người trẻ thì lại chẳng thể biết tới. Và cuộc sống con người lúc bấy lại thật đơn giản. Trước khi đi san mặt đất, con người vẫn sống chung, ở chung và ăn chung với nhau. Người Lô Lô xưa đã biết tận dụng điều kiện tự nhiên để trồng bắp, lấy nước uống từ "bụng đá" "Trồng bắp trên núi cao/ Uống nước từ bụng đá". Tuy nhiên, sống trong không gian hoang sơ, thiếu thốn khi "Bầu trời nhìn chưa phẳng/ Mặt đất còn nhấp nhô" nên con người thời cổ đã khẩn trương cùng nhau đi tái tạo thế giới.
Để có thể san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời thì người Lô Lô đã biết tận dụng sức mạnh của các loài vật xung quanh lúc bấy giờ:
"Kiếm con trâu sừng cong
Chọn con trâu sừng dài"
Họ kiếm những con trâu sừng phải cong, phải dài vì đây là những con trâu khỏe, trâu tốt. Chúng đi cày bừa san đất mà không quản gì mệt nhọc. Có sức giúp đỡ của chúng thì công cuộc cải tạo mặt đất của người Lô Lô xưa chẳng mấy chốc mà thành. Thế nhưng công việc san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời là công việc chung của muôn loài nên con người đã đi chuột chũi cóc, ếch. Đáp lại lời kêu gọi của người Lô Lô xưa, các con vật đều tìm cớ trốn tránh, thoái thác. Không thể trông cậy vào chúng, con người đã tập hợp sức mạnh của nhau để cải tạo thiên nhiên "Giống nào cũng không đi/ Người gọi nhau làm lấy". Truyện "Đi san mặt đất" của người Lô Lô không chỉ đơn thuần là lời lí giải về sự bằng phẳng của mặt đất và bầu trời mà còn phản ánh nhận thức của người Lô Lô xưa về quá trình tạo lập thế giới. Theo cách lí giải của họ, để có được mặt đất, bầu trời bằng phẳng như ngày nay thì người Lô Lô xưa đã phải đi san mặt đất. Con người đã tự biết tập hợp sức mạnh của cộng đồng để chung tay thực hiện công việc. Và qua đây, ta thấy được con người trong buổi sơ khai đã có ý thức trong việc cải tạo thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của chính mình.
Không chỉ độc đáo ở chủ đề, truyện "Đi san mặt đất" còn có những đặc sắc ở khía cạnh nghệ thuật. Người Lô Lô xưa đã sáng tạo truyện thần thoại bằng hình thức thơ ca với giọng điệu vui tươi, nhí nhảnh tạo cảm giác thích thú cho người đọc.
Bên canh đó, truyện còn sử dụng biện pháp nhân hóa cùng với ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Các con vật được nhân hóa có những cử chỉ giống con người đã giúp cho chuyện trở nên sinh động hơn. Người Lô Lô xưa đã sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giản dị giúp cho bạn đọc ở mọi lứa tuổi dễ dàng tiếp nhận truyện.
"Đi san mặt đất" là một trong những truyện thần thoại đặc sắc của người Lô Lô. Truyện đã thể hiện những lí giải nguyên sơ của người xưa về vũ trụ, về thế giới qua thể thơ năm chữ kết hợp sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Qua câu chuyện, ta càng thêm ấn tượng với trí tưởng tượng của người xưa trong việc sáng tạo những giá trị văn hóa dân gian.
Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể - mẫu 6
Nhắc đến những câu chuyện ngụ ngôn nước ngoài, ta không thể bỏ qua truyện Con cáo và chùm nho của nhà văn nổi tiếng Hy Lạp Aesop (Aisōpos, khoảng năm 620-564 trước CN). Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện ngụ ngôn nước ngoài hay và đặc sắc về chủ đề cùng những hình thức nghệ thuật xuất sắc.
Truyện kể về con cáo vào một hôm xuống triền núi và thấy phía trước là một vườn nho căng tròn mọng nước khiến anh ta thèm thuồng tới mức nước bọt cứ trào ra. Vì thế, cáo đã tìm mọi cách để có thể chén được no nê những chùm nho đó. Nhưng thật không may mắn, từ cây cao đến cây thấp, cáo vẫn không thể nhảy đến chùm nho. Thậm chí, chùm thấp nhất khiến Cáo tự đắc rằng không gì có thể làm khó được nó cũng thất bại. Sau một hồi cố gắng, Cáo đành thở dài và cho rằng những chùm nho vỏ xanh kia chắc là chưa chín, vừa chua vừa chát, không ăn được. Cốt truyện tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.
Đọc Con cáo và chùm nho của nhà văn Hy Lạp Aesop, ta có thể dễ dàng nhìn ra rằng giá trị của truyện trước hết thể hiện qua chủ đề và bài học cuộc sống mà nó gửi gắm. Hình ảnh con cáo đã được tác giả hình tượng hóa để đề cập đến vấn đề về sự biện hộ và tự cao của cá nhân. Điều mà câu chuyện muốn cảnh tỉnh là đừng quá đề cao bản thân, mình phải tự biết khả năng của mình đang nằm ở vị trí hay con số nào; khi sai lầm hoặc thất bại, hãy tự biết nhận lỗi, rút ra bài học cho bản thân và đừng bao giờ đổ lỗi cho hoàn cảnh. Bản chất là một truyện ngụ ngôn, Con cáo và chùm nho đã mượn câu chuyện về con vật để ám chỉ về lối sống của con người. Chủ đề của truyện mang tính chất khái quát bởi không chỉ đúng trong đất nước hay con người Hy Lạp – nơi nó được sinh ra, mà đó là lời nhắn nhủ, cảnh tỉnh dành cho tất cả mọi người. Chúng ta đừng như con cáo kia, đừng cho mình là nhất bởi ngoài kia còn rất nhiều người giỏi hơn và khi thất bại cũng đừng đổ lỗi cho bất kì ai, bất kì điều gì; hãy phát huy điểm mạnh bạn đang có, khắc phục điểm yếu, từ thất bại rút ra những bài học kinh nghiệm để vươn tới thành công.
Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu sắc trong Con cáo và chùm nho thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.
Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Thông thường, khi muốn thể hiện lối ứng xử, tính cách của nhân vật, tác giả truyện ngụ ngôn sẽ đặt nhân vật của mình vào những tình huống nhất định. Con cáo và chùm nho cũng không ngoại lệ, Aesop đã xây dựng tình huống về cuộc gặp gỡ giữa con cáo với những chùm nho căng mọng nước trong vườn và cách xử lí của nó để có được một bữa ăn no nê. Tình huống tuy khá đơn giản nhưng qua đó người đọc thấy được cách ứng xử của con cáo khi gặp khó khăn và chủ đề mà người kể chuyện muốn nói đến ở đầu truyện càng được làm sáng rõ.
Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng là một thủ pháp nghệ thuật khá quan trọng trong thể loại truyện ngụ ngôn. Cáo là biểu trưng cho những người luôn cho mình là nhất, mình luôn đúng trong mọi chuyện, nếu sai thì cũng chỉ do hoàn cảnh tác động, không dám chấp nhận sự thật về sự thất bại của bản thân. Chùm nho tượng trưng cho những yếu tố ngoại cảnh. Trong truyện, con cáo không với tới chùm nho nên đã tự nhủ nho còn xanh, chua và chát để biện hộ cho việc không hái được nho của mình, tức là do tác động của ngoại cảnh chứ không phải mình vô dụng.
Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua lời thoại. Trong Con cáo và chùm nho, tác giả đã để nhân vật tự độc thoại với chính mình và tính cách sẽ được bộc lộ qua từng câu chữ, lời nói đó. Khi thấy những chùm nho khác thấp hơn, Cáo đã tự đắc không có gì làm khó được mình nhưng kết quả vẫn là sự thất bại. Sau nhiều lần cố gắng, Cáo đã buông xuôi và nói: “Làm sao mình lại cứ phải ăn mấy chùm nho như này nhỉ? Vỏ thì xanh thế, chắc chắn là chưa chín rồi. Không biết chừng còn vừa chua vừa chát, không nuốt được”. Từ đó ta thấy được Cáo là một người luôn tự đắc và chỉ biết đổ lỗi cho hoàn cảnh. Chính những lời độc thoại đó càng làm nổi bật nhân cách, điểm mạnh, điểm yếu của nhân vật.
Những phân tích ở trên đây cho thấy Con cáo và chùm nho là một truyện ngụ ngôn tiêu biểu trong kho tàng các sáng tác truyện của Aesop. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán đến những người có lối sống thắng lợi tinh thần. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, lời thoại để nhân vật bộc lộ rõ nhất tính cách của mình để qua đó các bài học nhân sinh được lột tả.
Đọc câu chuyện này, dường như em cảm thấy có đôi lúc em cũng giống như con cáo kia và bây giờ mình cần phải thay đổi để xóa bỏ tính cách không tốt đó.
Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể - mẫu 7
Truyền thuyết dân gian vốn là món ăn tinh thần vô cùng phong phú của dân tộc ta, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Thuở ấu thơ ta lớn lên nhờ những câu chuyện kể của bà, của mẹ, lúc trưởng thành ta lại ru con ngủ bằng chính những câu chuyện hấp dẫn ấy. Có rất nhiều câu chuyện đã trở nên quen thuộc trong lòng mỗi người ví như Tấm Cám, Sọ Dừa, Sơn Tinh Thủy Tinh hay Thánh Gióng,... Tựu chung lại những truyền thuyết, những câu chuyện cổ ấy đều phản ánh chân thực khát khao của nhân dân ta về một cuộc sống tốt đẹp, lương thiện, về việc chế ngự thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm với một niềm tin tích cực. Sự tích Hồ Gươm cũng chính là một truyền thuyết như vậy. Bối cảnh của truyền thuyết diễn ra trong lúc giặc Minh đô hộ nước ta, tuy đã có nghĩa quân Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa chống giặc, nhưng buổi đầu thế lự còn non yếu, nên vẫn thường thua trận. Long Quân thấy nghĩa quân anh dũng, xả thân vì nước nên quyết định cho mượn gươm thần. Tuy nhiên, việc cho mượn gươm Long Quân cũng thiết kế một cách rất tinh tế, như là một thử thách cho Lê Lợi, bởi cái gì dễ có được người ta thường không trân trọng. Hơn thế nữa việc cho mượn gươm có phần thử thách ấy còn giúp Lê Lợi thu nạp được thêm một vị tướng tài là Lê Thận.
Lê Thận ban đầu vốn làm nghề đánh cá, có lẽ Long Quân đã thấy được khí chất anh hùng và tiềm năng của chàng trai miền biển này nên đã cố tình gửi gắm lưỡi gươm cho Lê Thận. Sau ba lần thả lưới ở ba khúc sông khác nhau mà vẫn vớt được cùng một lưỡi gươm kỳ lạ, đen thui, giống một thanh sắt không hơn không kém, Lê Thận đã quyết định đem về dựng ở xó nhà, vì linh cảm của một người thông minh thì gươm này ắt có điều bí ẩn, sau này có thể dùng được. Theo dòng chảy định mệnh, Lê Thận tham gia nghĩa quân Lam Sơn, trở thành phụ tá đắc lực, lập nhiều công lớn, chiến đấu anh dũng, thế nên có lần Lê Lợi đã ghé nhà Lê Thận chơi. Dương như đã nhận ra chủ tướng Lê Lợi, nên lưỡi gươm đen sì, vốn vẫn gác xó nhà lại sáng rực lên bất thường. Lê Lợi cầm lên xem thì thấy hai chữ "Thuận Thiên", như báo trước cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi lãnh đạo là hợp ý trời, được trời cao ủng hộ. Tuy nhiên đến đây những con người trần mắt thịt vẫn chưa thể nào liên hệ đến sự thần kỳ của lưỡi gươm kỳ lạ ấy.
Chỉ đến một lần, nghĩa quân thất thế, Lê Lợi phải chạy một mình vào rừng tránh sự truy lùng của giặc, lúc này đây vô tình phát hiện ra ánh sáng kỳ lạ ở một ngọn cây trong rừng, Lê Lợi tò mò trèo lên xem thì phát hiện một chuôi gươm nạm ngọc cực đẹp. Là người nhanh nhạy Lê Lợi lập tức liên tưởng đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, ông liền đem chuôi gươm ấy về. Qủa đúng như vậy, khi lắp lưỡi gươm vào chuôi gươm thì vừa in, sau nhiều lần thử thách cuối cùng chuôi và lưỡi gươm cũng tìm được nhau, ý trời đã phó thác cho Lê Lợi làm việc lớn. Ngoài ra sự tương hợp của chuôi và lưỡi gươm còn thể hiện một lời nhắc nhở rất hay của Long Quân, rằng muốn làm việc lớn trước hết cần sự đoàn kết, nếu chỉ có chuôi gươm đẹp đẽ thì cũng chẳng thể chém đầu tên địch nào, còn nếu chỉ có lưỡi gươm thì cũng chẳng thể dùng bởi thiếu mất chuôi. Hình ảnh chuôi gươm cũng đại diện cho vị chủ tướng là Lê Lợi người lãnh đạo nghĩa quân, lúc nào cũng phải sáng suốt và mạnh mẽ. Hình ảnh lưỡi gươm là đại diện cho quân đội của ta, tiêu biểu là những vị tướng dưới trướng như Lê Thận, người sẽ giúp Lê Lợi chém đầu từng tên giặc cướp nước. Như vậy sự vừa vặn của chuôi và lưỡi gươm chính là biểu hiện của sự phối hợp ăn ý giữa chủ tướng Lê Lợi và nghĩa quân dưới trướng, đó là sức mạnh tổng hòa làm nên chiến thắng của nhân dân ta.
Từ khi có sự trợ giúp của thanh gươm thần, nghĩa quân ta liên tục thắng trận, quân giặc bị đánh đuổi không còn một mảnh giáp, phải đầu hàng và rút quân về nước trong sự nhục nhã. Có được chiến thắng ấy, một phần là nhờ sự thần kỳ của gươm thần mà Long Quân cho mượn, đồng thời gươm ấy đã mang lại niềm tin và nhuệ khí cho nghĩa quân ta, giúp sức mạnh nghĩa quân tăng gấp bội.
Chuyện sau khi Lê lợi đã lên làm vua, trong một lần du thuyền trên hồ Tả Vọng (hồ Gươm bây giờ), thì có rùa Thần lên đòi gươm về cho Long Quân có nhiều ý nghĩa. Đầu tiên là lý lẽ có mượn có trả, Lê Lợi đã chiến thắng quân Minh, đất nước ta đã yên bình, thanh gươm cũng không còn phận sự gì nữa thì nên được trả về cho chủ cũ. Thứ hai là Long Quân muốn gửi gắm một điều rằng, sự trợ giúp của thần linh âu cũng chỉ là một phần nhỏ, còn nếu muốn vận nước hưng thịnh lâu dài thì phải dựa vào tài trị quốc của Lê Lợi, đừng nên ỷ vào việc có gươm thần mà lơ là cảnh giác, bài học của An Dương Vương vẫn còn sáng mãi cho đến tận bây giờ. Dù bất kỳ lý do nào, Long Quân đòi lại gươm cũng thật xác đáng. Câu chuyện trả Gươm cũng giải thích lý do hồ Tả Vọng còn có tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.
Sự tích Hồ Gươm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn rất phong phú về nghệ thuật Trong truyền thuyết này có hai câu chuyện vừa lồng ghép vừa tách bạch với nhau: câu chuyện mượn gươm và câu chuyện trở gươm. Chúng có nội dung riêng nhưng đồng thời bổ sung nghĩa cho nhau. Không chỉ vậy văn bản là sự kết hợp giữa yếu tố thực và yếu tố tưởng tượng, kì ảo một cách hài hòa, hợp lí. Với sự kết hợp hài hòa các yếu tố kì ảo và sự bền bỉ với các yếu tố lịch sử, Sự tích Hồ Gươm không chỉ giải thích, nguồn gốc ra đời của tên gọi Hồ Gươm. Mà qua câu chuyện này còn nhám ca ngơi, tôn vinh tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân của khởi nghĩa Lam Sơn Tên họ Hoàn Kiếm đồng thời cũng dùng để đánh dấu chiến thắng của dân tộc, thể hiện ước mơ, khát vọng hòa bình của nhân dân.
Truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm là một truyền thuyết có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện lòng tin và khát vọng mạnh mẽ của nhân dân ta về sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Bởi cuộc chiến của nhân dân ta là cuộc chiến vì chính nghĩa, có sự trợ giúp của thần linh, là thuận theo ý trời, những kẻ hung tàn bạo ngược ắt phải thất bại. Sự tích ấy còn là lời lý giải lý thú về những cái tên khác của hồ Gươm.
Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể - mẫu 8
Trong nền văn hóa của dân tộc Việt Nam, từ bao đời nay, ông cha ta luôn lưu truyền những câu chuyện thần thoại kỳ ảo huyền bí để có thể giải thích cho sự hình thành quê hương đất tổ. giải thích được cho con cháu đời sau về sự hình thành của trời đất, của nước non hùng vĩ. Trong hệ thống thần thoại đó, ông cha ta đã giải thích về việc sáng lập vũ trụ. Và tác phẩm Thần Trụ Trời là mở đầu, tiếp theo là một loại các thần thoại khác như Thần Mưa, Thần Biển, Thần Mặt Trời, Mặt Trăng lần lượt ra đời. Tiếp chân của những thần thoại khai phá ra vũ trụ kia là các thần thoại về các vị thần sáng tạo ra muôn loài….
Qua tác phẩm Thần Trụ Trời, ta có thể biết được để tách biệt trời đất như ngày nay. Thần trụ trời đã phải đào đất, khiêng đá đắp thành cột để chóng trời, từ đó mới hình thành ra các vị thần khác cùng thần trụ trời cai quản. và một trong các vị thần cùng cai quản và nối tiếp cho khoảng vũ trụ được hình thành đó có sự sống thì phải kể đến vị Thần Mưa - vị thần tạo ra sự sinh thái cân bằng cho trời đất, là tiền đề duy trì sự sống cho muôn loài do các vị thần sáng tạo ra muôn loài tạo lên.
Đầu tác phẩm, tác giả đã giải thích vị Thần Mưa có hình rồng, thường bay lượn xuống hạ giới hút nước biển, nước sông vào bụng rồi bay lên trời để tạo ra mưa. Qua lời giải thích đó, ta có thể biết được vị thần có hình dáng là một con rồng, được Trời giao phó là hút nước dưới trần thế để tạo ra mưa cho loài người cày cấy, sinh hoạt. Cho cây cỏ sinh sôi và phát triển, muôn thú có nước để duy trì hệ sinh thái của mình. Đây là một công việc vô cùng quan trọng, ấy nhưng vị thần này lại có tính hay quên, có vùng đất cả năm không ghé mặt để phân phát nước khiến nhiều vùng bị hạn hán nghiêm trọng. Muôn thú, cỏ cây khó có thể duy trì sự sống. Điều đó được tác giả nói rõ “Thần Mưa có tính hay quên, có vùng cả năm không đến, sinh ra hạn hán ở hạ giới, có vùng lại đến luôn, làm thành lụt lội. Do đó mà có lần ở hạ giới phải lên kiện trời vì Thần Mưa vắng mặt lâu ngày”. Qua đó ta có thể thấy rõ vị Thần này đãng trí đến nỗi khiến Muôn loài ở các vùng đất hạn hán đó bất mãn đến mức nào, khiến họ phải kiện đến cả trời xanh. Điều này được thể hiện khá rõ tại tác phẩm “cóc kiện Trời”, bởi sự trễ nải này mà khiến cỏ cây héo úa, muôn thú khát khô cả cổ chỉ vì sự văng mặt lâu ngày của Thần Mưa.
Nhưng tiếp đó, tác phẩm cũng đã giải thích một phần lí do sự trễ nải này của thần Mưa “Công việc phân phối nước cho khắp mặt đất rất nặng nề, một mình thần Mưa có khi không làm hết”. Một phần vì tính hay quên của Thần, một phần vì trời đất bao la rộng lớn quá, công việc nặng nhọc này cũng chỉ có mỗi Thần đảm nhiệm nên nhất thời lo không xuể. Chính vì lo không hết khiến công việc quá tải, muôn loài oán than. Vì để giảm bớt gánh nặng cho Thần Mưa, cũng như xoa dịu được sự nóng giận của muôn loài dưới hạ dưới, nên Trời đã mở cuộc thi chọn loài giúp sức cho công việc của Thần Mưa qua việc mở cuộc thi chọn giống loài thủy tộc có tài năng để giúp Rồng hút nước tạo mưa. Cuộc thi được Nhà Trời chọn đại điểm là ở cửa Vũ (Vũ Môn) thuộc tỉnh Hà Tĩnh ngày nay để có thể lên Thần hóa rồng trợ giúp Nhà Trời và Thần Mưa tạo mưa cho muôn loài.
Mồng ba cá đi ăn thề,
Mồng bốn cá về cá vượt Vũ Môn
Qua hai câu thơ trên, cho thấy Nhà Trời rất coi trọng cuộc thi này, vì trước kia khi mới sáng lập ra trời và đất, công việc tạo mưa là do đích than Trời làm để cho muôn loài, cỏ cây phía dưới tồn tại sinh sống và làm ăn. Sau đó vì đất trời tạo ra bao la quá, công việc khó nhọc không thể đảm nhiệm được nữa nên mới sai rồng lấy nước để làm ra mưa. Nhưng trong chính tác phẩm cũng đã nêu rõ vì số lượng rồng trên trời quá ít không thể đảm nhiệm nổi công việc nên Trời đã ban lệnh Xuống cho Thủy Phủ để kén chọn loài có thể cùng rồng làm công việc điều hòa sự sống cho muôn loài.
Qua lời bộc bạch của tác giả qua từng câu chữ trong tác phẩm, ta có thể thấy được yếu tố kỳ ảo của tác phẩm, sự sinh động từng câu chữ khiến cho tác phẩm thật sinh động hiện ra trước mắt để có thể đi sâu vào tâm hồn người đọc.
Tác phẩm thể hiện rõ yếu tố truyền kỳ qua từng câu chữ qua việc vua Thủy Tể loan tin để cho muôn loài dưới Thủy cung ganh đua mà dự thi. Cuộc thi được phân chia làm ba kỳ, mỗi kỳ lại nâng một độ khó khác nhau mỗi kỳ vượt qua một đợt sóng, con vật nào đủ sức đủ tài, vượt được cả ba đợt, thì mới lấy đỗ mà cho hóa Rồng” có thể thấy tính chất của cuộc thi nghe thì dễ nhưng mà thực hiện thì khó qua việc phải vượt qua cả ba đợt song mới lấy làm đỗ để có thể hóa rồng. Cả một đoạn của tác phẩm đã thể hiện cản tượng tranh tài của bao loài Thủy sinh dưới nước thể hiện hết sức mình nhưng đều bị loại cả vì không thể vượt qua đợt sống. Từ “sống” được đặt ở cuối câu như vậy để thể hiện tính chất của cuộc thi thật khắc nghiệt, để có thể vượt qua cuộc sát hạnh này, với mong muốn được hóa rồng mà có thể nhiều loài đã từ bỏ mạng sống của mình. Có loài cá rô nhảy qua được một đợt nên chỉ được một điểm, điều này khiến cá rô nhà ta mất đi cơ hội hóa rồng đành phải về yên vị ở đồng như trước. Tiếp đến, có con tôm nhảy qua được hai đợt hóa được một nửa rồng rồi, điều đó được tác giả nêu rõ “Có con tôm nhẩy qua được hai đợt, ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi đã gần hóa Rồng thì đến lượt thứ ba, đuối sức ngã bổ xuống lưng cong khoăm lại và chất thải lộn lên đầu.” Qua câu từ như vậy, ta cũng có thể hiểu được lí do tại sao tôm lại bơi giật lùi, thân cong và chất thải lại bị lộn lên đầu như vậy. Qua lời kể trên, ta đã học hiểu được nhiều điều qua lời kể đầy xúc tích, dễ hiểu đến như vậy qua việc diễn tả tôm, cá rô, cá chép vượt qua như thế nào. Điều đó ngầm ý muốn cho khung cảnh cuộc thi trở lên sinh động trước mắt người đọc.
Sau nhiều đợt tuyển chọn, tưởng chừng chẳng có con vật nào có thể qua được. Đến lượt cá chép vào thi thì thì vô cùng thuận lợi. Tác giả đã dung từ “ào ào” đề diễn tả sự thiên tàng địa lợi của cá chép, cá chép nhờ đó mà vượt cả ba phần sát hạch và vào được cửa Vũ Môn. Qua lời miêu tả của tác phẩm, cá chép đỗ, đuôi, râu, sừng tự nhiên đầy đủ như rồng. Một hình dáng oai nghi, cùng với Thần mưa đảm nhiệm công việc ban phát mưa xuống trần thế.
Việt Nam ta hình thành qua bao nhiêu đời nay luôn gắn liền với một kho tàng thần thoại khổng lồ gắn liền với sự hình thành của Đất Việt - sự trường tồn, phồn vinh và lưu truyền muôn đời để thế hệ mai sau có thể biết được sự thiêng liêng của Đất Nước, trong các tác phẩm đó thì Thần Mưa cũng là một trong những thần thoại to lớn luôn trường tồn với thời gian. Nó vẫn luôn tồn tại những giá trị tinh thần mà người xưa muốn gửi gắm lại cho đời sau những giá trị nhân văn của dân tộc, nói lên ước mơ khát vọng vượt qua khó khăn để đạt được danh vọng qua nhân vật Cá chép. Qua đó, mong thế hệ mai sau tiếp nối, giữ gìn và thực hiện.
Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể - mẫu 9
Truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh là một trong những truyền thuyết lâu đời nhất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam và đã gắn liền với tuổi thơ của biết bao người. Câu chuyện thể hiện niềm khao khát chế ngự thiên nhiên của nhân dân ta, trước nỗi lo thiên tai bão lụt vẫn thường hoành hành hằng năm qua.
Đầu tien, truyền thuyết này như muốn nói về hiện tượng thiên tai, bão lụt hàng năm cũng như lòng quyết tâm chống lại thiên tai của nhân dân ta ngày trước. Sơn Tinh , Thuỷ Tinh kể về đời vua Hùng thứ 18. Kể rằng vua Hùng có một người con gái vô cùng xinh đẹp lại nết na diền dịu có tên là Mị Nương. Nay nàng đã đến tuổi thành thân, nên vua cha muốn kén cho nàng một người chồng xứng đáng. Trong số đó có hai chàng trai kiệt xuất là SƠn Tinh và Thuỷ Tinh. Một người là chúa vùng non cao, còn một người là vua hùng nước thẳm. Vì đưa được sính lễ tới trước là " voi chín ngà, gà chín cựa" nên Sơn Tinh được cưới Mị Nương về làm vợ. Tức tối, ghen ghét vì thua cuộc nên Thuỷ Tinh đã hô mưa gọi gió, tạo ra lũ lụt để đánh bại Sơn Tinh. Thuỷ Tinh đã dâng nước thì Sơn Tinh dời núi non. Thuỷ Tinh đại diện cho thiên nhiên giông bão, lũ lụt còn Sơn Tinh đại diện là biểu tượng cho nhân dân ta với tinh thần kiên cường, bất khuất sự mưu trí và anh dũng không chịu đầu hàng trước thiên nhiên, số phận.
Tiếp đó, tác giả dân gian đã lựa chọn được hình ảnh, nghệ thuật đặc sắc để diễn tả được hình ảnh thiên tai bão lũ và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trước thiên tai. Đây là câu chuyện được viết theo kiểu thần thoại Việt Nam nên có thể thấy được truyện chưa có nhiều yếu tố kì ảo để nói về những hiện tượng thiên nhiên. Từ tình huống vua Hùng kén rể, ta có thể thấy đươc núi non, nhân dân ta luôn đặt lên hàng đầu. Vua Hùng đã đặt ra những sính lễ là voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín hồng mao. Những sính lễ này có thể thấy được dễ dàng tìm dược ở vùng núi rừng chứ không phải ở biển cả. Sơn Tinh đã có một lợi thế rõ ràng trước Thuỷ Tinh. Sau đó một loạt những chi tiết kỳ ảo đã xảy ra như Thuỷ Tinh đã hô mưa, gọi gió, nước dâng lên cao bao nhiêu thì Sơn Tinh lại làm cho đồi, núi mọc cao lên bấy nhiêu như vẽ nên bức tranh thiên tai ngày xưa. Lũ lụt càng lên cao thì dân ta càng gắng sức chiến đấu chống lại thiên tai. Cùng với đó là hình ảnh người dân Việt Nam hay còn là dân Văn Lang cùng Sơn Tinh chống lại cuộc chiến với Thuỷ Tinh càng tô đậm vẻ kiên cường của nhân dân Việt Nam trước bão lũ.
Câu chuyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh được khắc hoạ qua các chi tiết kì ảo sinh động về hai vị thần rất thành công trong việc đưa người đọc đến với hình ảnh của người dân thời xưa đối mặt với sự tức giận từ thiên nhiên như thế nào. Truyện đã gắn với bao thế hệ luôn nhắc nhở chúng ta về tình đoàn kết của nhân dân trước mọi khó khăn, thử thách.
Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể - mẫu 10
Khi nói về các truyện ngụ ngôn nước ngoài không thể không nhắc đên câu chuyện Con cáo và chùm nho của một nhà văn Hy Lạp danh tiếng. Đây thực sự là một tác phẩm xuất sắc trong thể loại ngụ ngôn với chủ đề sâu sắc và sự thể hiện nghệ thuật tuyệt vời.
Câu chuyện kể về một con cáo đi xuống núi và bắt gặp một vườn nho quả mọng nước khiến anh ta khát khao vô cùng. Tuy nhiên, cho dù con cáo cố gắng nhảy lên cây này sang cây khác anh ta vẫn không thể đạt được chùm nho. Ngay cả những chùm nho phía dưới cùng cũng khiến con cáo không thể với tới. Cuối cùng, cáo bất đắc dĩ phải từ bỏ và cho rằng những chùm nho xanh đó chưa chín chua và không ngon. Mặc dù câu chuyện có cốt truyện đơn giản nhưng lại chứa đựng những bài học quý báu về cuộc sống.
Con cáo và chùm nho thể hiện giá trị của câu chuyện thông qua chủ đề và bài học cuộc sống mà nó mang đến. Con cáo trong câu chuyện trở thành biểu tượng của sự kiên nhẫn và tự phụ của con người. Chúng ta cần nhận ra sai lầm và thất bại của mình và học từ chúng điều này là một thông điệp vô cùng quý báu lối sống con người.
Tác phẩm cũng chứa đựng yếu tố nghệ thuật mạnh mẽ thông qua việc xây dựng nhân vật và tình hống, tính biểu tượng của các nhân vật.
Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể - mẫu 11
Với hàng ngàn năm đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước, những cuộc chiến đã trở thành một điều hết sức quen thuộc đối với dân tộc Việt Nam. Bằng tài năng, tâm huyết và ngòi bút tài hoa của mình, các nhà văn, nhà thơ đã đứng ra nhận nhiệm vụ, trở thành những người "thư kí trung thành của thời đại". Họ đưa hiện thực vào trang sách, đem nó đến với độc giả bao thế hệ. Trong đó, ta không thể không kể đến nhà văn Bảo Ninh. Với giọng điệu nhẹ nhàng, điềm đạm, ông đã tái hiện cuộc sống của con người thời chiến rất đẹp, rất thật qua truyện ngắn "Giang".
Tác phẩm viết về chủ đề chiến tranh - một trong những nguồn cảm hứng bất tận của văn học. Ở đây, nhà văn Bảo Ninh không nhấn mạnh vào những cuộc chiến khốc liệt với đầy khói súng và bom đạn. Ông đưa đến cho ta bức tranh về cuộc sống của người lính trẻ vô danh, từ đó thể hiện tình cảm dân - quân gắn bó, thân thiết. Qua đó, ta cũng thấy được những mất mát, đau thương mà nhân dân phải chịu đựng trong những năm tháng chiến đấu gian khổ.
Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả đem đến hình ảnh về người chiến sĩ mười bảy tuổi tràn đầy năng lượng với thành tích "đạt điểm cao nhất đại đội" trong buổi kiểm tra xạ kích. Nhờ đó mà anh được thưởng hai ngày phép, dẫn đến cuộc gặp gỡ tình cờ giữa anh với cô gái tên Phạm Nhật Giang. Khi thấy chân tay người lính trẻ lấm lem bùn đất, cô gái đã ân cần, chu đáo tự mình cọ rửa hộ con người xa lạ kia. Sự tinh tế ấy khiến cho anh lính "sững lặng" và "bất động". Không chỉ vậy, Giang còn nhiệt tình mời anh về nhà uống nước, thể hiện sự hồn nhiên, mến khách đáng quý. Thái độ của bố Giang với nhân vật "tôi" cũng mang đến cho người đọc cảm giác gần gũi, ấm áp. Ban đầu, ông tỏa ra sự nghiêm nghị của một trung tá quân đội. Tuy nhiên khi hỏi chuyện, ông đã dịu nét mặt, động viên anh lính và thậm chí còn cho phép Giang lấy xe đạp đèo anh về đơn vị cho kịp giờ. Đến lần gặp gỡ thứ hai trên chiến trường, thái độ của ông niềm nở hẳn. Ông vui vẻ kể về đứa con gái đang đợi ở nhà, còn hẹn "bữa sau" sẽ đưa cho nhân vật "tôi" tấm ảnh Giang gửi.
Tuy vậy, chiến tranh vẫn là chiến tranh. Nó vẫn cướp đi nhiều thứ quý giá trong cuộc sống con người. Qua cuộc trò chuyện của đôi bạn trẻ, ta được biết gia đình Giang giờ đây không còn trọn vẹn. Mẹ cô đã mất, anh trai thì đi làm nhiệm vụ. Nhà cô ở ngõ Chợ Khâm Thiên, nhưng lại được bố đón về đây, ở trong một túp nhà đơn sơ để hai bố con gần nhau. Nỗi buồn và sự cô đơn bủa vây khiến Giang khao khát có một người bạn để tâm sự. Những chưa dừng lại ở đó, chiến tranh còn cướp đi cả bố của cô - vị tham mưu trưởng đáng kính trong một trận chiến "vào cuối mùa khô". Điều này vừa khiến Giang thêm cô độc, vừa biến "tôi" và Giang trở lại làm hai con người xa lạ. Mối quan hệ vừa mới chớm nở giữa họ giờ đây thành "một gặp gỡ vẩn vơ, lưu luyến mơ hồ gần như không có thật". Tất cả đều là do cuộc chiến vô nghĩa, tàn khốc gây nên.
Qua truyện ngắn, người đọc còn thấy được ngòi bút nghệ thuật đầy tài hoa của tác giả. Ở đây, nhà văn Bảo Ninh đã đặt điểm nhìn vào nhân vật "tôi" - một chiến sĩ vô danh để kể chuyện. Câu chuyện ấy như một trải nghiệm, một kí ức không thể nào quên đối với người lính trẻ, tạo cho người đọc sự tin tưởng và đồng cảm sâu sắc. Các nhân vật trong truyện cũng được xây dựng hết sức chân thực, gần gũi. Mỗi người lại có những lời nói, hành động thể hiện tính cách đặc trưng riêng. Không chỉ có vậy, tác phẩm viết về đề tài chiến tranh nhưng lại mang giọng văn điềm đạm, trầm ổn. Khi nhắc về sự hi sinh của tham mưu trưởng, ta chỉ thấy những dòng chữ ngắn gọn, cô đọng: "Không có "bữa sau ấy" [...] năm đầu tiên sư đoàn chúng tôi lâm trận". Điều này cũng cho ta thấy sự từng trải của tác giả.
Đến với "Giang", nhà văn Bảo Ninh đã chứng minh tài năng của mình qua việc thể hiện thành công cả về nội dung và nghệ thuật. Không chỉ tái hiện cuộc sống con người Việt Nam thời chiến, tác giả còn mang tới bức tranh về tình quân - dân thắm thiết, keo sơn. Và dù cho có được lãng mạn hóa đến mức nào thì ta vẫn không thể xóa đi những thiệt hại mà chiến tranh đem đến. Nó vẫn sẽ là nỗi đau âm ỉ sâu trong lòng mỗi người để nhắc ta về một thời huy hoàng của lịch sử. Với cách lựa chọn ngôi kể, tình huống truyện cùng việc xây dựng các nhân vật giản dị, gần gũi, "Giang" đã trở thành một điểm sáng trong muôn vàn tác phẩm cùng thể loại.
Chiến tranh lúc nào cũng tàn khốc, vô tình. Nhưng cũng nhờ đó mà nhân loại mới thấy trân trọng biết bao nền hòa bình, độc lập, thống nhất. Xã hội và con người ngày một phát triển. Vậy nên, là một công dân, ta cần chăm chỉ, nỗ lực phát triển và hoàn thiện bản thân, đóng góp sức lực vào công cuộc xây dựng, kiến thiết nước nhà. Chỉ khi có đầy đủ về tri thức và đạo đức thì ta mới có thể đưa Việt Nam "sánh vai với các cường quốc năm châu" như lời mà Bác Hồ từng dạy.
Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể - mẫu 12
Chiến tranh từ xưa đến nay vẫn luôn là vấn đề "nóng" của xã hội. Chiến tranh không chỉ gây ra vô vàn thiệt hại về tài sản, vật chất, bom đạn nơi chiến trường còn để lại bao nỗi mất mát, ám ảnh, thậm chí là những di chứng đến tận ngày hôm nay. Trong những năm tháng đau thương ấy, văn học xuất hiện như một thứ vũ khí tinh thần, mang hi vọng đến cho nhân loại. Một trong số rất nhiều tác phẩm ấn tượng nhất phải kể đến truyện ngắn "Buổi học cuối cùng" của nhà văn An-phông-xơ Đô-đê. Bằng ngòi bút tài hoa, điềm tĩnh của mình, tác giả đã khai thác đề tài chiến tranh theo một cách rất riêng, mang lại những bài học sâu sắc cho nhiều thế hệ sau này.
Lấy bối cảnh sau cuộc chiến Pháp - Phổ với phần thua thuộc về đất nước Pháp, nhà văn đã dựng lên một câu chuyện vô cùng cảm động về tình yêu Tổ quốc và tinh thần tự tôn dân tộc. Vùng An-dát bị cắt cho Phổ, dẫn đến việc tất cả các trường học ở nơi đây chỉ được phép dạy tiếng Đức.
Buổi học được bắt đầu với không khí kì lạ cùng lời thầy Ha-men: "Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con...". Cậu bé Phrăng trước kia coi việc học là điều gì đó nhàm chán. Nhưng đến lúc này, cậu bé lại hối hận vì những lần trốn học, tiếc nuối cho những buổi học mình bỏ lỡ, ước gì mình có thể đọc một cách trôi chảy. Tư tưởng, suy nghĩ của cậu đã thay đổi rất nhiều. Giờ đây, nhìn thầy Ha-men trên bục giảng mà cậu biết cảm thấy thương, thấy tiếc. Sự chia cắt của dân tộc chính là bước ngoặt lớn để cậu bé Phrăng trưởng thành hơn.
Thầy Ha-men có lẽ là người đại thể hiện được rõ nhất nỗi đau mất nước của một dân tộc. Ông đã khoác lên mình bộ đồ đẹp nhất, truyền tải kiến thức cho mọi người hết lòng hết dạ. Những lời tâm huyết của ông khi nhắc về ngôn ngữ mẹ đẻ càng tô đậm hơn tình yêu nước và lòng tự tôn dân tộc sâu sắc của một người thầy giáo. Bằng tất cả sức lực của mình, ông đã dũng cảm dạy đến hết buổi học. Tuy nhiên trong lúc đó, qua con mắt của cậu học trò, ta vẫn được thấy nét yếu đuối, niềm tiếc thương của người thầy đáng quý ấy khi chuẩn bị phải rời đi. Giây phút kết thúc lớp, ông dường như rơi vào tuyệt vọng. Hành động cầm phấn viết dòng chữ "NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM" bằng tất cả sức lực của mình là minh chứng rõ ràng nhất cho tinh thần phản kháng của ông cũng như của mọi người. Tất cả đều thể hiện tình yêu lớn lao ông dành cho đất nước, cho thứ tiếng mẹ đẻ thiêng liêng của dân tộc.
Ngay cả những cụ già trong làng cũng tới, dành chút thời gian ít ỏi còn lại để tham gia cùng mọi người. Giờ đây, buổi học ấy không còn chỉ là để dạy tiếng Pháp nữa. Nó đã trở thành buổi học về lòng yêu nước, tự tôn và tự hào đối với gốc gác, nguồn cội. Tiếng Pháp lúc này không chỉ là một thứ ngôn ngữ nữa mà là "chìa khóa của chốn lao tù", giúp giải thoát cả một dân tộc khỏi ách nô lệ. Chỉ cần giữ được tiếng mẹ đẻ thì dù khó khăn đến đâu, con người vẫn sẽ không khuất phục, sẽ còn khát vọng và đấu tranh cho một tương lai hòa bình, thống nhất.
Với tác phẩm, nhà văn An-phông-xơ Đô-đê đã chứng tỏ được sự tài hoa của mình trong nghệ thuật kể chuyện. Ở đây, tác giả đã lựa chọn ngôi kể thứ nhất, đặt người đọc vào điểm nhìn của Phrăng - cậu bé ở một vùng bị chia cắt, khiến cho câu chuyện trở nên đáng tin hơn. Bằng việc xây dựng bối cảnh và tình huống truyện éo le, nhà văn đã làm nổi bật lên tầm quan trọng của buổi học cuối ấy. Nó đã biến một cậu bé nghịch ngợm trở nên ham học. Những lời độc thoại của Phrăng đã cho ta thấy rất rõ sự phát triển trong suy nghĩ và nhận thức của cậu. Không chỉ có vậy, nhân vật thầy Ha-men cũng được miêu tả rất sinh động, rõ nét qua vẻ bề ngoài và hành động. Từ sự chau chuốt trong trang phục đến việc kiên nhẫn giảng giải, truyền thụ kiến thức đều cho thấy người thầy đó đáng kính đến như nào. Ông trân trọng từng phút giây quý giá cuối cùng ở nơi mình đã gắn bó suốt bốn mươi năm. Tất cả đã cùng mang đến cho người đọc sự tiếc nuối, buồn đau, thương cảm cho một dân tộc bị chia cắt.
Bằng góc nhìn khác biệt cùng ngòi bút độc đáo của mình, An-phông-xơ Đô-đê đã mang đến cho chúng ta một tác phẩm đầy cảm xúc. "Buổi học cuối cùng" là thông điệp về tình yêu Tổ quốc và niềm hi vọng về một tương lai hòa bình, thống nhất. Qua đó, chúng ta lại càng thêm trân trọng nền độc lập và biết ơn sự hi sinh cao cả của các thế hệ đi trước. Bao người lính trẻ đã ngã xuống để mang đến cuộc sống yên lành bây giờ. Đồng thời, ta cũng cần bảo vệ, gìn giữ ngôn ngữ riêng của dân tộc. Hãy học tập và trau dồi bản thân cả về tri thức và đạo đức, góp sức vào công cuộc kiến thiết nước nhà.
Phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể - mẫu 13
"Thần Trụ Trời" là một tác phẩm dân gian lưu truyền của người Việt cổ được ra đời từ thời tiền cổ vẫn tiếp tục duy trì đến ngày nay đã được nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tập và ghi chép cẩn thận qua bản văn cuốn "Lược khảo về thần thoại Việt Nam". Trong truyện thần thoại trên, người Việt cổ mong muốn giải thích nguồn gốc những hiện tượng thiên nhiên như vì sao có trời, có đất và vì sao trời với đất lại được chia đôi, vì sao mặt đất thì không bằng phẳng có chỗ lõm có chỗ hở hay vì sao có sông, núi, biển, đảo. Cho thấy người Việt cổ cũng như các dân tộc khác trên thế giới đều đã cố tìm kiếm để biết được điều bí ẩn có xung quanh họ. Ai cũng chưa thể hiểu được nhưng họ vẫn không chịu khuất phục vì dân gian đã sáng tạo nên một ông thần khác để giải thích thiên nhiên vũ trụ một cách rất ngộ nghĩnh và quá đáng yêu. Độc giả ngày nay cảm thụ được nơi họ sự hồn nhiên cùng ước mơ của nhiều người Việt cổ đang vươn dậy để giải thích thế giới tự nhiên quanh mình. Các chi tiết kể chuyện miêu tả Thần Trụ Trời luôn có những vòng hào quang để điểm tô tính chất kỳ diệu, siêu phàm của nhân vật trong thần thoại. Truyện đã nhân cách hoá vũ trụ trở thành một ông thần. Hành động tiếp theo khi Thần Trụ Trời đến là "nâng vai đứng thẳng, vươn cao đầu đội trời lên rồi đưa chân đạp đất xuống" cũng là hành động và việc làm có tính điển hình của các vị thần tạo thiên lập địa khác trên thế giới. như ông Bàn Cổ trong thần thoại Trung Quốc cũng đã làm tương tự như vậy. Nhưng cũng có điểm khác biệt nữa là sau khi đã ở giữa cõi hỗn loạn tương tự với cái trứng của vũ trụ thì ông đạp cho trái trứng chia đôi thành nửa trên là trời và nửa dưới là đất rồi ông lại đưa trời lên cao, đạp đất hạ thấp bởi những biến hoá cứ tăng dần không ngừng nghỉ của bản thân ông mà không phải như Thần Trụ Trời đã xây cột đỡ trời. Nước nhà cho thấy việc ra đời của ông Thần Trụ Trời tại Việt Nam và ông Bàn Cổ ở Trung Quốc vừa có điểm tương đồng nhau lại có điểm khác nhau. Và đấy cũng vừa là nét tương đồng và nét riêng biệt có ngay trong thần thoại của mỗi dân tộc. Từ cái ban đầu vốn có, người Việt cổ cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới không ngừng tìm tòi, sáng tạo khiến cho nền văn học và nghệ thuật ngày càng phong phú đa dạng. Ai cũng có thể nói đến kho tàng thần thoại Việt Nam và nền nghệ thuật Việt Nam như vậy. Cũng vì nghệ thuật phóng đại nên những nhân vật thần thoại có được sức sống bền bỉ và xuyên suốt theo thời gian để tồn tại mãi với thế giới ngày nay. Thần thoại đã tạo ra cho con người Việt Nam nếp sống, nếp suy nghĩ, nếp làm việc giàu hình tượng phóng đại và bay bổng. Truyện thần thoại "Thần Trụ Trời" cũng cho nhiều bạn đọc hiểu được sự ra đời của trời đất, sông, núi, đá và cho thấy những sáng tạo của người Việt cổ. Tuy truyện có những yếu tố hư cấu, phóng đại nhưng cũng có phần lõi của sự thật là con người thời cổ đã khai phá, mở mang và tạo dựng đất nước.
Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 10 hay khác:
- Từ việc đọc hai văn bản sử thi trên đây, hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) về một phẩm chất của người anh hùng sử thi, trong đó có đánh dấu phần bị tỉnh lược trong văn bản hoặc chú thích trích dẫn.
- Hãy viết văn bản nghị luận trình bày ý kiến về vấn đề: Tầm quan trọng của động cơ học tập.
- Hãy viết văn bản nghị luận trình bày ý kiến về vấn đề: Ứng xử trên không gian mạng.
- Hãy viết văn bản nghị luận trình bày ý kiến về vấn đề: Quan niệm về lòng vị tha.
- Hãy viết văn bản nghị luận trình bày ý kiến về vấn đề: Thị hiếu của thanh niên ngày nay.
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 10 hay khác:
- Soạn văn 10 Chân trời sáng tạo (hay nhất)
- Soạn văn 10 Chân trời sáng tạo (ngắn nhất)
- Soạn văn 10 Chân trời sáng tạo (siêu ngắn)
- Giải Chuyên đề học tập Văn 10 Chân trời sáng tạo
- Giải lớp 10 Chân trời sáng tạo (các môn học)
- Giải lớp 10 Kết nối tri thức (các môn học)
- Giải lớp 10 Cánh diều (các môn học)
ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH LUYỆN THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 10
Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi, sách dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official
Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
Giải bài tập lớp 10 Chân trời sáng tạo khác