SƠ LƯỢC TIỂU SỬ HƯNG ĐẠO VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN
Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn, Ông là con trai của An Sinh Vương Trần Liễu, cháu vua Trần Thái Tông, quê làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Hà Nam Ninh (nay thuộc tỉnh Nam Định). Năm sinh của ông không rõ ràng, có tài liệu cho là năm 1228, có tài liệu thì cho là năm 1230 hay 1232.. Ngài thông minh đĩnh ngộ, văn võ song toàn; chí biết dẹp thù nhà, thân biết đoàn kết anh em dòng họ cùng lo toan việc nước. Ngài nghiên cứu binh thư, biết dùng người hiền tài như Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng; coi binh sĩ như chân với tay. Ở nơi Ngài thể hiện các đức tính: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, và Tín. Cả ba lần chống quân Mông- Nguyên, ngài đã lập nhiều công lớn. Ngài mất vào ngày 20 tháng Tám năm Canh Tý (1300). Có đền thờ tại Vạn Kiếp, Chí Linh.
Bạn đang xem: THCS TRẦN HƯNG ĐẠO
Xem thêm : Tìm hiểu về bình minh và hoàng hôn
Ngài vốn có tài quân sự, lại là tôn thất nhà Trần, do đó trong cả 3 lần quân Nguyên – Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ (Tổng tư lệnh quân đội). Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi giặc ra khỏi nước vì thế ngài được phong tước Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn là bậc tướng trụ cột của triều đình. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp Tông bí truyền thư để răn dạy các tướng cầm quân đánh giặc. Khi giặc Nguyên lộ rõ ý đồ xâm lược, Trần Quốc Tuấn viết Hịch tướng sĩ ( sách Ngữ văn lớp 8) , truyền lệnh cho các tướng, dạy bảo họ lẽ thắng trận, tiến lui kêu gọ khích lệ lòng yêu nước chống giặc. Bài “Hịch tướng sĩ” hùng hồn, thống thiết, khẳng định văn trương của một bậc “đại-bút” Trần Quốc Tuấn là vị tướng gồm cả tài đức vẹn toàn, dẹp bỏ thù nhà vì đất nước trung với Vua.
- -Là tướng nhân, ông thương dân thương quân, chỉ cho họ conđường sáng. Là tướng nghĩa ông coi việc phaỉ hơn điều lợi. là tướng trí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn tới đâu.
- -Là tướng dũng, ông xông pha nơi nguy hiểm để đánh giặc, tạo những trận như Bạch Đằng oanh liệt ngàn đời.
- -Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính theo ông sẽ được gì, trái lời ông thì gặp họa. Cho nên, cả 3 lần đánh giặc Nguyên, ông đều được giao trọng trách điều bát binh mã và đều lập công lớn.
Xem thêm : Cách tính điện năng tiêu thụ của gia đình trong 1 tháng
Mùa thu tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tý (1300), “Bình Bắc đại nguyên soái” Hưng Đạo đại vương qua đời. Vua gia phong cho ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh. Nơi phong ấp của ông lúc sinh thời.
Sau khi mất, Trần Hưng Đạo được thờ phụng ở nhiều nơi, trong đó lễ hội lớn nhất ở đền Kiếp Bạc thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay, nơi ngày xưa là phủ đệ của Ngài. Ngài được người dân bao đời sùng kính phong Thánh tức là Đức thánh Trần, đây là điều hiếm hoi trong lịch sử chỉ dành riêng cho vị danh tướng nhà Trần. Ngày lễ chính thức được tổ chức vào ngày Ngài mất (20 tháng 8 âm lịch hàng năm). Nhân dân không gọi trực tiếp tên của Ngài mà gọi là Hưng Đạo Vương, Hưng Đạo Đại Vương, Đức thánh Trần, hoặc gọi là Cha (Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ)./.
- Sông Bạch Đằng lịch sử là nơi Hưng Đạo Đại Vương chỉ huy quân dân nhà Trần đánh thắng giặc Mông Nguyên. Ngày nay khu di tích Tràng Kênh bên dòng sông Bạch Đằng ở Thủy Nguyên Hải Phòng là nơi tham quan và thờ các vị Vua Lê Đại Hành, Vua Ngô Quyền vàvịtướng Hưng Đạo Đại Vương.
Tiếp nối truyền thống của cha ông hôm nay chúng ta vinh dự tự hào được học ở ngôi trường mang tên Vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo chúng ta thi đua dạy tốt học tốt để tiếp tục XD và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để “sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác hằng mong đợi
Nguồn: https://vnedulink.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục