PGS. TSKH. Trần Nguyễn Tuyên, Hội đồng Lý luận Trung ương,
nguyên Viện trưởng Viện Kinh điển Mác – Lê-nin
Bạn đang xem: Chính sách Kinh tế mới của V.I. Lê-nin và ý nghĩa thời đại của nó 03/05/2017 09:57:00 11297
Một trong những di sản lý luận quan trọng nhất của V.I. Lê-nin về xây dựng chủ nghĩa xã hội đó là Chính sách Kinh tế mới được soạn thảo năm 1921. Chính sách Kinh tế mới của V.I. Lê-nin đến nay vẫn có ý nghĩa thời đại to lớn, nhất là trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay.
Hoàn cảnh ra đời của Chính sách Kinh tế mới
Tháng 3-1921, V.I. Lê-nin đã vạch ra Chính sách Kinh tế mới (NEP) thay cho Chính sách cộng sản thời chiến, được trình bày đầu tiên trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”. V.I. Lê-nin đã xuất phát từ đặc điểm cơ bản về kinh tế – xã hội của nước Nga lúc bấy giờ: Một là, sự tồn tại của một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, như: kinh tế kiểu gia trưởng – kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp của nông dân; sản xuất hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước; chủ nghĩa xã hội. Tất cả các thành phần kinh tế đó tồn tại xen kẽ và tác động qua lại lẫn nhau trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, kinh tế tiểu nông sản xuất hàng hóa nhỏ chiếm ưu thế, đây là đặc điểm quan trọng nhất. Hai là, nền đại công nghiệp cơ khí, cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội còn vô cùng non yếu; các quan hệ hàng hóa – tiền tệ chưa phát triển. Ba là, sự khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội trầm trọng sau nội chiến mới kết thúc. Bốn là, nước Nga là nước làm cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, phải tự khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vô cùng khó khăn, bị chủ nghĩa tư bản quốc tế bao vây chống phá.
Từ sự phân tích này, khắc phục sự nóng vội chủ quan muốn trực tiếp đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội và khủng hoảng kinh tế, xã hội trong nước, V.I. Lê-nin đã đề ra NEP trong giai đoạn nước Nga chuyển từ thời chiến sang thời bình.
Việc khôi phục và phát triển các quan hệ hàng hóa – tiền tệ, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước và các thành phần kinh tế khác, coi đó là những biện pháp quá độ, những mắt xích trung gian để chuyển sang chủ nghĩa xã hội, là phương thức để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, là những hình thức và phương pháp mới xây dựng chủ nghĩa xã hội thay cho Chính sách cộng sản thời chiến đã tỏ ra không phù hợp với điều kiện đã thay đổi.
Có thể khẳng định, NEP là đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội với sự thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hóa tiền tệ, kinh tế thị trường, thực hiện sự trao đổi giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, thay chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế lương thực, chú trọng kích thích lợi ích vật chất và coi đó là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế, sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Ý nghĩa của việc vận dụng Chính sách Kinh tế mới trong giai đoạn hiện nay
V.I. Lê-nin đã bảo vệ và phát triển học thuyết của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, nâng lên trình độ cao mới trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản phát triển lên giai đoạn cao là chủ nghĩa đế quốc trong hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Kế thừa học thuyết của C. Mác trong điều kiện mới, V.I. Lê-nin đã sáng tạo ra lý luận khoa học về chủ nghĩa đế quốc, khởi thảo lý luận mới về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người đã xác định kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội, đề ra NEP, phác họa những đường nét cơ bản của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước kinh tế chậm phát triển.
Khi vạch ra NEP, V.I. Lê-nin đã khẳng định: “Chúng ta buộc phải thừa nhận là toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản”(1). Những quan điểm của V.I. Lê-nin trong NEP về phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hóa tiền tệ, kinh tế thị trường, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước dường như mâu thuẫn với quan niệm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen khi cho rằng chủ nghĩa cộng sản xóa bỏ buôn bán, cùng với việc xã hội nắm lấy tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hóa cũng bị loại trừ.
Thực ra phải hiểu điều kiện lịch sử cụ thể của những quan điểm của các nhà kinh điển, điều khẳng định ở trên của C. Mác và Ph. Ăng-ghen là những dự đoán về giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản chứ không phải nói về giai đoạn thấp của nó, tức là chủ nghĩa xã hội. Điều này C. Mác đã khẳng định: Đó là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội về mọi phương diện – kinh tế, đạo đức, tinh thần – còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra… Các nhà kinh điển đã chỉ ra một cách đúng đắn về mặt phương pháp luận khi cho rằng cơ sở để xóa bỏ chế độ tư hữu là lực lượng sản xuất phải được phát triển đến một trình độ nhất định với trình độ xã hội hóa cao, chứ không phải chỉ bằng quyết định mệnh lệnh hành chính hay mong muốn chủ quan.
Biện chứng của lịch sử là ở chỗ để thủ tiêu chế độ tư hữu thì phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường và như vậy phải trải qua chế độ tư hữu trong một thời gian dài. Đây là quy luật khách quan, biện chứng của sự phát triển mà V.I. Lê-nin đã vận dụng sáng tạo trong NEP. Chính vì không nhận thức và vận dụng được quy luật này, nhiều nước xã hội chủ nghĩa cũ, như Liên Xô và Đông Âu trước đây đã chủ trương nhanh chóng xóa bỏ chế độ tư hữu, thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, không thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, không phát triển quan hệ hàng hóa – tiền tệ và kinh tế thị trường, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa theo hướng nội là chủ yếu, không tích cực tham gia vào phân công hợp tác quốc tế, coi nhẹ vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế. Tư duy này đã kìm hãm sự phát triển dẫn đến khủng hoảng trầm trọng.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) với quan điểm nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật đã đánh dấu bước ngoặt của quá trình đổi mới, nhất là đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta, khẳng định quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn của nước ta là quá trình chuyển hóa nền kinh tế còn mang nhiều tính tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa, khẳng định sự cần thiết của việc sử dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội, coi tính kế hoạch là đặc trưng số một, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa – tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế quản lý kinh tế mới. Như vậy, nhận thức của Đại hội VI mặc dù chưa đạt tới nhận thức về kinh tế thị trường, song đã đặt nền tảng cho sự phát triển của Đảng ta ở các đại hội sau.
Tại Đại hội VIII, Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện với khẳng định: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”(2).
Chỉ đến Đại hội IX (tháng 4-2001), Đảng ta mới chính thức đưa ra khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khẳng định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là mô hình kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển, vừa có những đặc điểm chung của kinh tế thị trường hiện đại, vừa có những đặc điểm riêng phù hợp với những điều kiện đặc thù của Việt Nam. Sự khẳng định của Nghị quyết Đại hội IX về mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một bước phát triển mới về nhận thức lý luận so với mô hình nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước được xác định tại Đại hội VIII. Đại hội XI đã đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) quan điểm về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, lý luận về phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, Đại hội XII của Đảng đã bổ sung hoàn thiện và xác định cụ thể hơn khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phù hợp với bối cảnh mới. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế – xã hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định mục tiêu: “Đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường”(3).
Rõ ràng, C. Mác và Ph. Ăng-ghen mới chỉ nêu ra những dự báo khoa học về xã hội cộng sản thông qua sự phân tích hiện thực của chủ nghĩa tư bản, điều này đòi hỏi các đảng cộng sản phải vận dụng phát triển sáng tạo học thuyết của C. Mác và Ph. Ăng-ghen trong điều kiện cụ thể của nước mình. Chính V.I. Lê-nin xuất phát từ thực tiễn nước Nga đã tổng kết: “Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được”(4).
Xem thêm : Đồng chí
Trong việc vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước, cần khắc phục quan điểm chủ quan duy ý chí, giáo điều, tả khuynh làm cho học thuyết tư tưởng của các nhà kinh điển bị méo mó. Thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô trước đây và thực tiễn Việt Nam thời kỳ trước đổi mới đã cho thấy rõ điều đó. Cuộc sống cho thấy mô hình chủ nghĩa xã hội cũ với tính kế hoạch hóa tập trung cao độ, tập trung đẩy mạnh cải tạo, phát triển quan hệ sản xuất mà không chú trọng đầy đủ đến vai trò của lực lượng sản xuất, coi nhẹ yếu tố khuyến khích vật chất gắn với sử dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ và kinh tế thị trường đã làm cho mô hình này không có sức sống và lâm vào khủng hoảng sâu sắc.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nhận định bài học đầu tiên qua tổng kết 30 năm đổi mới là: “Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”(5).
Trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã vận dụng, phát triển sáng tạo NEP của V.I. Lê-nin trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, do vậy, đã đạt được những kết quả quan trọng trong phát triển kinh tế và xã hội, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; tạo ra các tiền đề quan trọng để tiếp tục phát triển đất nước trong thời gian tới./.
–
(1) V.I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơ-va, 1978, t. 45, tr. 428
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 97
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 104
(4) V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, 1977, t. 36, tr. 334
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 69
Theo tapchicongsan.org.vn
Nguồn: https://vnedulink.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục