Khiếu nại và tố cáo là hai thuật ngữ quen thuộc không chỉ trong phạm vi pháp luật hành chính mà trong cuộc sống thường nhật; khiếu nại và tố cáo là các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Bản chất hai thuật ngữ này hoàn toàn khác nhau. Song, vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi pháp luật về khiếu nại, tố cáo đã có không ít trường hợp còn lúng túng, chưa phân biệt rõ ràng, chính xác thế nào là khiếu nại, thế nào là tố cáo, khi đơn thư có nội dung chứa đựng cả khiếu nại và tố cáo thì thụ lý, giải quyết còn lúng túng. Đây là một trong nhiều nguyên nhân làm nảy sinh những nhầm lẫn, thiếu sót trong việc xử lý đơn thư; phần nào dẫn đến việc đơn thư khiếu nại, tố cáo không được giải quyết kịp thời, chính xác và tồn đọng… Để khắc phục tình trạng chung này, đồng thời để các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng như người dân hiểu rõ hơn về khiếu nại và tố cáo, chúng tôi trao đổi một số điểm khác nhau cơ bản giữa khiếu nại và tố cáo.
Thứ nhất, về căn cứ pháp lý: Vấn đề khiếu nại được Luật Khiếu nại năm 2011 điều chỉnh; vấn đề tố cáo được Luật Tố cáo năm 2018 điều chỉnh (Luật Tố cáo năm 2018 có hiệu lực từ ngày 01/01/2019)
Bạn đang xem: Trao đổi những điểm khác nhau giữa khiếu nại và tố cáo 22/03/2019 11:28:00 2835
Thứ hai, về khái niệm: Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật Khiếu nại quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật Tố cáo báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân,
Mục đích hướng tới của khiếu nại là nhằm bảo vệ hoặc khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Còn mục đích tố cáo, về cơ bản là bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; tuy nhiên, cũng có một số trường hợp tố cáo nhằm bảo vệ quyền lợi của chính bản thân người tố cáo. Như vậy, chủ thể thực hiện quyền khiếu nại rộng hơn chủ thể thực hiện quyền tố cáo.
Thứ ba, về chủ thể thực hiện quyền: Chủ thể thực hiện khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức. Chủ thể thực hiện tố cáo là công dân, việc quy định này cá thể hóa trách nhiệm của người tố cáo và thể hiện quyền tố cáo của công dân đối với mọi hành vi vi phạm mà mình biết, hành vi vi phạm đó có thể tác động trực tiếp hoặc không tác động đến người tố cáo.
Thứ tư, về đối tượng: Đối tượng của khiếu nại gồm ba đối tượng, một là quyết định hành chính; hai là hành vi vi phạm hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước, người thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước; ba là quyết định kỷ luật cán bộ, công chức. Đối tượng của tố cáo gồm 02 đối tượng là hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Từ đó có thể thấy, phạm vi tác động (đối tượng) của tố cáo rộng hơn nhiều so với khiếu nại.
Thứ năm, trách nhiệm về thông tin: Người khiếu nại không chịu trách nhiệm về thông tin khiếu nại, không có quy định nào về việc người khiếu nại chịu trách nhiệm về việc khiếu nại sai, không đúng sự thật. Người tố cáo phải chịu trách nhiệm về thông tin tố cáo; theo đó: người tố cáo phải có nghĩa vụ trình bày trung thực về nội dung tố cáo, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được, nếu không trung thực, người tố cáo có thể phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo.
Thứ sáu, quyền của chủ thể: Người khiếu nại có quyền nhờ luật sư tư vấn về pháp luật hoặc ủy quyền cho luật sư khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Người tố cáo không được uỷ quyền cho người khác mà phải tự mình tố cáo hành vi vi phạm pháp luật đến bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo của mình.
Pháp luật không quy định bảo vệ người thực hiện khiếu nại; nhưng quy định bảo vệ người tố cáo (bảo vệ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích và thông tin cá nhân khác; bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo).
Thứ bảy, về thẩm quyền giải quyết: Khiếu nại thực hiện chế độ giải quyết 2 cấp. Khiếu nại lần đầu: Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Khiếu nại lần hai: trường hợp, người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.
Thứ tám, về kết quả giải quyết: Kết quả giải quyết khiếu nại là quyết định giải quyết (quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, quyết định giải quyết khiếu nại lần hai). Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của công dân, cơ quan, tổ chức được gửi cho người khiếu nại, thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người giải quyết khiếu nại hoặc người có thẩm quyền, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã chuyển khiếu nại đến và cơ quan Thanh tra Nhà nước cùng cấp; trường hợp là giải quyết khiếu nại lần hai thì thêm gửi cho người giải quyết khiếu nại lần đầu. Quyết định giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật của cán bộ, công chức: lần đầu phải được gửi cho người khiếu nại và cơ quan, tổ chức hữu quan; lần thứ hai thì thêm gửi cho người giải quyết khiếu nại lần đầu, đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải được gửi cho Tổng Thanh tra Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Kết quả giải quyết tố cáo là kết luận nội dung tố cáo và quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo. Người giải quyết tố cáo có trách nhiệm thực hiện việc công khai kết luận nội dung tố cáo; người có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính có trách nhiệm công khai quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo (theo quy định của pháp luật). Việc công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo phải bảo đảm không làm tiết lộ thông tin về người tố cáo và những nội dung thuộc bí mật nhà nước.
Thứ chín, về thời hiệu giải quyết: Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính; trường hợp người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
Đối với khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức: thời hiệu khiếu nại lần đầu là 15 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định kỷ luật. Thời hiệu khiếu nại lần hai là 10 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu; đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc thì thời hiệu khiếu nại lần hai là 30 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. Trường hợp người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
Đối với tố cáo không quy định thời hiệu.
Mười, về gia hạn thời gian giải quyết: Khiếu nại không quy định việc gia hạn thời gian giải quyết. Tố cáo quy định việc gia hạn thời gian giải quyết tố cáo; cụ thể: Đối với vụ việc phức tạp thì có thể gia hạn giải quyết tố cáo một lần nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc đặc biệt phức tạp thì có thể gia hạn giải quyết tố cáo hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày. Người giải quyết tố cáo quyết định bằng văn bản việc gia hạn giải quyết tố cáo và thông báo đến người tố cáo, người bị tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Mười một, về hướng giải quyết sau khi rút đơn: Đối với rút khiếu nại, cơ quan Nhà nước sẽ không tiếp tục giải quyết khiếu nại nếu người khiếu nại rút đơn. Người khiếu nại có thể rút khiếu nại tại bất cứ thời điểm nào trong quá trình khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Việc rút khiếu nại phải được thực hiện bằng đơn có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại; đơn xin rút khiếu nại phải gửi đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại khi nhận được đơn xin rút khiếu nại thì đình chỉ việc giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại về việc đình chỉ giải quyết khiếu nại.
Xem thêm : Dạy trẻ học Tiếng Anh qua bài hát với top 10 bài nhạc hấp dẫn nhất
Đối với rút tố cáo, người tố cáo có quyền rút toàn bộ nội dung tố cáo hoặc một phần nội dung tố cáo trước khi người giải quyết tố cáo ra kết luận nội dung tố cáo. Cơ quan Nhà nước vẫn tiếp tục giải quyết vụ việc tố cáo trường hợp người tố cáo rút một phần nội dung tố cáo thì phần còn lại được tiếp tục giải quyết theo quy định của Luật Tố cáo; trường hợp người tố cáo rút toàn bộ nội dung tố cáo thì thực hiện theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 34 của Luật Tố cáo. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo mà có một hoặc một số người tố cáo rút tố cáo thì tố cáo vẫn tiếp tục được giải quyết theo quy định của Luật Tố cáo. Người đã rút tố cáo không được hưởng quyền và không phải thực hiện nghĩa vụ quy định tại Điều 9 của Luật Tố cáo, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này. Trường hợp người tố cáo rút tố cáo mà người giải quyết tố cáo xét thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ xác định việc rút tố cáo do bị đe dọa, mua chuộc hoặc người tố cáo lợi dụng việc tố cáo để vu khống, xúc phạm, gây thiệt hại cho người bị tố cáo thì vụ việc tố cáo vẫn phải được giải quyết. Người tố cáo rút tố cáo nhưng có căn cứ xác định người tố cáo lợi dụng việc tố cáo để vu khống, xúc phạm, gây thiệt hại cho người bị tố cáo thì vẫn phải chịu trách nhiệm về hành vi tố cáo của mình, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Mười hai, về tạm đình chỉ và đình chỉ: Khiếu nại không quy định tạm đình chỉ giải quyết khiếu nại, chỉ quy định đình chỉ giải quyết khiếu nại trong trường hợp người khiếu nại rút khiếu nại. Người giải quyết khiếu nại phải thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại về việc đình chỉ giải quyết khiếu nại
Tố cáo quy định việc tạm đình chỉ và đình chỉ việc giải quyết tố cáo. Theo đó: (i) Tạm đình chỉ, người giải quyết tố cáo ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo khi có một trong các căn cứ sau: Cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc đợi kết quả giải quyết vụ việc khác có liên quan; cần đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại. Khi căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo không còn thì người giải quyết tố cáo ra ngay quyết định tiếp tục giải quyết tố cáo; thời gian tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo không tính vào thời hạn giải quyết tố cáo. (ii) Đình chỉ, người giải quyết tố cáo ra quyết định đình chỉ việc giải quyết tố cáo khi có một trong các căn cứ: Người tố cáo rút toàn bộ nội dung tố cáo, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật Tố cáo; người bị tố cáo là cá nhân chết và nội dung tố cáo chỉ liên quan đến trách nhiệm của người bị tố cáo; vụ việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
Quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết tố cáo phải nêu rõ lý do, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và gửi đến người tố cáo, người bị tố cáo trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định.
Mười ba, quyền khởi kiện ra tòa: Người khiếu nại có quyền khiếu nại lần đầu, lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính khi không đồng ý với quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, quyết định giải quyết khiếu nại lần hai không phải cần căn cứ cho rằng các quyết định đó trái pháp luật.
Đối với tố cáo, pháp luật quy định chỉ được tố cáo tiếp khi cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tố chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết, chứ không được khời kiện ra Tòa án.
Mười bốn, về khen thưởng: Pháp luật không có cơ chế khen thưởng trong khiếu nại. Đối với tố cáo, quy định khen thưởng người tố cáo khi người tố cáo trung thực, tích cực cộng tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý hành vi vi phạm pháp luật thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Thời gian qua, có những vụ việc khiếu nại được giải quyết theo trình tự, thủ tục của Luật Khiếu nại, nhưng sau đó công dân không đồng ý chuyển sang tố cáo người giải quyết khiếu nại. Luật Tố cáo năm 2018 (Điều 29) đã quy định cụ thể trường hợp tố cáo xuất phát từ vụ việc khiếu nại đã được giải quyết đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật nhưng người khiếu nại không đồng ý mà chuyển sang tố cáo người đã giải quyết khiếu nại thì chỉ thụ lý tố cáo khi người tố cáo cung cấp được thông tin, tài liệu, chứng cứ để xác định người giải quyết khiếu nại có hành vi vi phạm pháp luật.
Tóm lại, việc phân biệt khiếu nại và tố cáo một cách chuẩn xác là một trong những việc làm cần thiết quan trọng để góp phần khắc phục những bất cập, vướng mắc trong việc tiếp nhận, xử lý và giải quyết đơn thư khiếu nại và đơn thư tố cáo hiện nay./.
Nguyễn Mạnh Hùng
Nguồn: https://vnedulink.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục