Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.
Chào các bạn,
Bạn đang xem: Đọt Chuối Non
Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn một bộ môn độc đáo khác trong Dân ca Dân nhạc Miền Nam: “Nói Thơ Vân Tiên”.
“Nói Thơ Vân Tiên” là một giai điệu thấm sâu trong lòng người dân Lục tỉnh mỗi khi trà dư tửu hậu. Giai điệu này còn được các bà mẹ dùng trong thể loại Hát Ru Con (Hát Đưa Em).
Câu truyện Lục Vân Tiên, truyện thơ nổi tiếng nhất miền Nam do cụ Nguyễn Đình Chiểu viết những năm 50 của thế kỷ 19, và được xuất bản lần đầu năm 1874, có cốt truyện tóm tắt như sau:
- Lục Vân Tiên quê ở huyện Đông Thành, khôi ngô tuấn tú, tài kiêm văn võ. Nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên từ giã thầy xuống núi đua tài, giữa đường chàng đã đánh tan bọn cướp Phong Lai, cứu được Kiều Nguyệt Nga. Cảm ân đức ấy, Nguyệt Nga tự nguyện gắn bó suốt đời với Vân Tiên và tự hoạ bức chân dung chàng giữ luôn bên mình. Còn Vân Tiên tiếp tục cuộc hành trình, gặp và kết bạn với Hớn Minh, một sĩ tử khác.
Sau khi về nhà thăm cha mẹ, Vân Tiên cùng tiểu đồng lên đường đi thi, ghé thăm Võ Công, người đã hứa gả con gái là Võ Thể Loan cho chàng. Từ đây, Vân Tiên có thêm người bạn đồng hành là Vương Tử Trực, tới kinh đô lại gặp Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Thấy Vân Tiên tài cao, Hâm, Kiệm sinh lòng đố kị, ghen ghét. Lúc sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi trở về quê chịu tang. Dọc đường về, Vân Tiên đau mắt nặng, rồi bị mù cả hai mắt, lại bị Trịnh Hâm lừa đẩy xuống sông. Nhờ giao long dìu đỡ đưa vào bãi, Vân Tiên được gia đình ông ngư cứu mạng. Sau đó chàng lại bị Võ Công khinh rẻ và bị Võ Thể Loan gạt bỏ vào hang núi Thương Tòng. Được thần tiên cho thuốc chữa mắt, Vân Tiên may mắn gặp lại Hớn Minh (vì trừng trị công tử Đặng Sinh ỷ thế làm càn mà Hớn Minh phải bỏ thi, sống lẩn lút trong rừng). Hớn Minh đón Vân Tiên về am dưỡng bệnh. Khoa thi năm ấy Tử Trực đỗ thủ khoa, trở lại nhà họ Võ hỏi thăm tin tức Vân Tiên. Võ Công ngỏ ý muốn gả Thể Loan, bị Tử Trực cự tuyệt và mắng thẳng vào mặt, Võ Công hổ thẹn ốm chết.
Nghe tin Lục Vân Tiên đã chết, Kiều Nguyệt Nga thề sẽ thủ tiết suốt đời. Thái sư đương triều hỏi nàng cho con trai không được, đem lòng thù oán, tâu vua bắt Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua. Thuyền đi tới biên giới, nàng mang theo bức hình Vân Tiên nhảy xuống sông tự tử. Phật Bà Quan Âm đưa nàng dạt vào vườn hoa nhà họ Bùi. Bùi Công nhận nàng làm con nuôi, nhưng Bùi Kiệm lại nằng nặc đòi lấy nàng làm vợ. Nguyệt Nga phải trốn khỏi nhà họ Bùi, vào rừng nương tựa một bà lão dệt vải.
Lục Vân Tiên ở với Hớn Minh, được tiên cho thuốc, mắt lại sáng, liền trở về nhà thăm cha, viếng mộ mẹ, thăm cha của Kiều Nguyệt Nga. Đến khoa thi, chàng đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Hớn Minh được tiến cử làm phó tướng. Đánh tan giặc, Vân Tiên một mình lạc trong rừng và gặp lại Nguyệt Nga. Chàng về triều tâu hết sự tình, kẻ gian ác bị trừng trị, người nhân nghĩa được đền đáp, Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga sum vầy hạnh phúc.
Dưới đây là bài thơ “Lục Vân Tiên” gồm 2082 câu lục bát. Sau đó là bài “Nói thơ: Một sản phẩm văn nghệ dân gian độc đáo của Nam bộ” của ông Nguyễn Hữu Hiệp sẽ giúp cho các bạn hiểu tổng quát về bộ môn đặc biệt này của vùng đất Chín Rồng.
Xem thêm : Nói với con – Y Phương – SGK mới
Sau đó mình có 2 clips về giai điệu “Nói Thơ Vân Tiên” do các nghệ nhân biểu diễn để các bạn tiện việc nghiên cứu.
Mời các bạn.
Túy Phượng
Nói thơ: Một sản phẩm văn nghệ dân gian độc đáo của Nam bộ
(Nguyễn Hữu Hiệp)
Nếu dân ca là sự dung hoà của giọng nói địa phương và các thể văn thơ bình dân thì, nói thơ, với lối diễn xướng “có ca vần” biểu đạt tự nhiên, hấp dẫn đặc thù (nói như hát, hát như nói – nhưng không phải là “hát nói”) nên được xem như một trường phái – trường phái mang tính “hát kể”. Cho nên, khi luật bàn về bộ môn này, nếu không phải là “dân Nam Bộ chính cống”, ắt sẽ có người thắc mắc: “Đã là thơ sao lại không ngâm, mà nói?”. Đơn giản, vì đích thực nghệ thuật diễn đạt “dòng thơ đặc trưng Nam Bộ” này – mà tiêu biểu là tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên – nhứt thiết người nghệ sĩ dân gian phải… “nói”. Cho dù có “cầm bổn”, nghĩa là chưa thuộc lòng, họ cũng chỉ thể hiện bằng cách “nói”, và “nói” thôi, chứ không “đọc”.
Nếu nói thơ Bạc Liêu (xuất phát ở Bạc Liêu) mang màu sắc dân ca trữ tình với làn điệu êm nhẹ thì, nói thơ Vân Tiên có phần “to tiếng” hơn, nhưng không quá trấn áp đến nhức cả tai như hát bội, cũng không nhấn đi nhấn lại những tiếng đệm “ư, ự” sau một vài tiếng hoặc cuối câu như kiểu hát này; không xen đều đều những tiếng “a” hay “nga” sau từng tiếng (chữ) như khi đọc truyện Tàu; cũng không lập lại vài tiếng hay cả câu ở “khổ trước” để kéo dài thời gian như hò; cũng không thôi thúc, bươn bả như nói vè, hoặc kiểu kêu lô tô… Trái lại, nó điềm tỉnh truyền đạt đến người nghe rõ chắc từng tiếng một, nhưng không rời rạc nhờ ở giai điệu và cơ cấu nhịp điệu, cùng là âm điệu rung ngâm vừa phải, đủ để tạo không khí đồng cảm và hấp dẫn người nghe. Vậy thì, ở bộ môn nghệ thuật này rõ ràng là vừa nói, vừa ngâm, vừa hát như một sự tổng hợp, đan xen hài hoà. Để biểu thị, người ta gọi đủ là “Nói thơ Vân Tiên”.
Nói thơ Vân Tiên nguyên là một cách diễn xướng rất đặc trưng truyện thơ Lục Vân Tiên, dài 2.082 câu, do nhà thơ miền Nam Nguyễn Đình Chiểu sáng tác. Từ ấy, đối với những tác phẩm truyện thơ dân gian có nội dung xây dựng đạo lý mẫu mực, lý tưởng phấn đấu, hoặc kích động lòng yêu nước, nhân dân thường dùng lối diễn xướng này. Chính nhờ nghệ thuật nói thơ hấp dẫn như thế mà tác phẩm Lục Vân Tiên nhanh chóng được phổ biến rộng rãi. Và nội dung “giữ đạo nhà” của nó tác động rất lớn đến nếp sống, nếp nghĩ nhân dân miền Nam. Ngay ở thời điểm tác phẩm mới được in ra (khoảng năm 1865), theo ghi nhận của G. Aubaret thì “Ở Nam Kỳ, có lẽ không một người thuyền chài hay người lái đò nào lại không ngâm nga vài ba câu trong khi đưa đẩy mái chèo”, và cũng theo lời ông ta, trên cả nẻo đường bộ, ở các chợ búa, nơi bến tàu, bến xe, đâu đâu người ta cũng thấy “những đám người ngồi xổm, xúm quanh một người ăn mặc rách rưới, thường là một kẻ mù loà, đề nghị anh ta gân cổ lên kể chuyện Lục Vân Tiên có khi đến hằng giờ mà người nghe không biết chán”. Rõ ràng nói thơ… Vân Tiên là một hình thức giải khuây mang ý nghĩa giáo dục quần chúng rất thâm sâu.
Xem thêm : Literature-studying Blog
Chung nhất, nói thơ là một sản phẩm văn nghệ dân gian đặc hữu độc đáo của Nam Bộ. “Bảo vật” phi vật thể đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc này, cho đến nay, cả tiết điệu, âm vận, đến cung đoạn và cách thức ngâm nga, nghỉ ngừng… những người nghệ sĩ dân gian – các cụ – vẫn rất mực trân trọng giữ gìn, và hầu như ai cũng diễn đạt rất nhuần nhuyễn, nhất là trong những trường hợp diễn xướng truyện thơ truyền thống, kiểu “bổn cũ soạn lại!”.
Trong kháng chiến chống ngoại xâm, nếu từng có những trường hợp “tiếng hát át tiếng bom” thì ngày trước, ngay dưới thời thuộc Pháp, chính quyền thuộc địa không thể không đau đầu về phong trào nói thơ miền Nam – một phong trào bùng lên sức đề kháng mãnh liệt của toàn dân Nam Bộ trước sự hà khắc tàn tệ của ngoại bang, mà tiêu biểu nhất là đối với tác phẩm khuyết danh “Thơ Thầy thông Chánh”, cho nên họ không thể không cấm ngặt mọi hình thức lưu hành, kể cả “lưu hành miệng”. Chính vì vậy mà đời nay, để có được “bổn thơ” này, người ta đã phải mất quá nhiều thời gian và công sức trong việc truy tìm. Và thật may mắn, với quyết tâm vừa nói, vật đã không phụ lòng người!
Khi ngâm nga “Thơ Thầy thông Chánh” bằng chính điệu “nói thơ” Nam Bộ, ta sẽ rất dễ dàng cảm nhận thân phận những con người thấp cổ bé miệng trước móng vuốt của bầy lang sói, để rồi “từ chân tường”, bằng lý trí, họ quyết thà chết chứ không chịu đội chung trời với giặc. Họ vùng lên, và trở thành “kẻ kỳ tời”. Hành động bất khuất ấy ngoạn mục làm sao!
Và, khi diễn xướng, ta cũng sẽ cảm nhận được rằng, “nói thơ” đã làm phong phú thêm hương sắc vườn hoa văn hóa nghệ thuật trên vùng đất phù sa màu mỡ phương Nam – một đóng góp lớn và rất đáng kể của người Nam Bộ mà thế hệ hôm nay và mai sau không thể không hãnh diện, tự hào.
Dưới đây là đoạn đầu bổn thơ Thầy thông Chánh được diễn xướng theo điệu “nói thơ Vân Tiên” (đọc minh họa):
- Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra, Chép làm một bổn để mà coi chơi, Trà Vinh nhiều kẻ kỳ tời, Có thầy Thông Chánh thiệt người khôn ngoan, Đêm nằm khô héo lá gan, Nghĩ giận Biện lý không an tấm lòng. Chừng nào tỏ nỗi đục trong, Giết tên Biện lý trong lòng mới thanh. Lang-sa làm việc châu thành, Mười bốn tháng bảy lễ rày Chánh chung. Chỉ sai đua ngựa rần rần, Trát đòi làng tổng tư bề đến đây. Bốn giờ đua ngựa cát bay, Phủ Hơn, Biện lý đương rày ngồi coi. Có thầy Thông Chánh hẳn hòi, Xách súng nai nịch đi coi châu thành. Phủ Hơn lời mới hỏi rằng: Do nào thầy Chánh đi rình bắn ai? Thầy thông thưa lại cùng ngài: Tôi bắn Biện lý chớ ai bao giờ. Thầy thông thiệt lẹ như cờ, Bắn quan Biện lý suối vàng mạng vong…
(Nguyễn Hữu Hiệp)
Nói thơ Vân Tiên – Liên hoan dân ca Việt Nam 2013 khu vực Nam Bộ tại Long An:
Nói thơ Vân Tiên – Liên Hoan Đờn Ca Tài Tử:
Nguồn: https://vnedulink.edu.vn
Danh mục: Văn Học